CỔ TRƯỚNG Ascites

Đại Cương

Bình thường ở màng bụng chỉ là một khoảng trống giữa lá Tạng và lá thành. Trong trường hợp bị bệnh hoặc khi có rối loạn điều hòa động và thủy tĩnh học của cơ thể, dịch thể xuất hiện trong ổ màng bụng, gọi là Cổ Trướng.

Dịch đó có thể lưu thông trong khắp ổ màng bụng, gọi là Cổ trướng tự do. Cũng có trường hợp dịch đó khu trú trong một vùng của ổ màng bụng bởi các màng dính tạo thành vách ngăn, đó là Cổ trướng ngăn cách.

Thiên Phúc Trung Luận Tố Vấn 40 viết: Có bệnh đầy vùng Tâm phúc, ăn được buổi sáng không ăn được buổi tối, đó là bệnh gì ? Trả lời: Gọi là bệnh Cổ trướng.

Chương Thủy Khí BệnhKim Quỹ Yếu Lược viết: Chứng Thạch thủy mạch thấy Trầm, biểu hiện ra ngoài là đầy bụng mà không suyễn. Chứng Can thủy thấy to bụng không xoay chuyển người được, dưới sườn và đau bụng. Chứng Tỳ thủy thấy to bụng, tay chân nặng nề, tân dịch không sinh ra, nhưng lại thiểu khí, tiểu tiện khó. Chứng Thận thủy thấy to bụng, vùng rốn sưng và đau lưng, không tiểu tiện được.

Sách Chư Bệnh Nguyên Hậu Luận – Thủy Cổ Hậu viết: Đây là do Thủy độc khí kết tụ ở trong khiến cho bụng to dần, có tiếng nước óc ách, muốn uống nước, da đen sạm giống như bị phù, gọi là chứng Thủy cổ.

Sách Y Môn Pháp Luật viết: Phàm có các chứng Trưng Hà, tích khối, bỉ khối, tức là có gốc rễ của bệnh Trướng, tích lũy ngày tháng, bụng to như cái chum, gọi là chứng Đơn phúc trướng.

Sách Đan Khê Tâm Pháp viết: Trong đục lẫn lộn, toại đạo bị ủng tắc,… thấp và nhiệt cùng phát sinh sẽ thành trướng đầy.

Sách Trương Thị Y Thông viết: Người nghiện rượu bị bệnh trướng bụng như cái đấu, đó là thấp nhiệt làm hại Tỳ. Vị tuy ăn vào được nhưng Tỳ không vận hóa, cho nên thành chứng Bỉ trướng.

Cổ trướng là một trong tứ chứng nan y: Phong chứng kinh phong, động kinh, Lao bệnh lao, Cổ cổ trướng, Lại phong cùi.

Người xưa, tùy thể bệnh còn gọi các tên Thủy cổ, Trùng cổ, Tri thù cổ có mạch sao, Đơn phúc trướng… Các học giả đời sau theo nguyên nhân bệnh chia làm 4 loại: Khí cổ, Huyết cổ, Thủy cổ, Trùng cổ.

Nhưng khí huyết, thủy cổ có liên quan mật thiết chứ không xuất hiện riêng lẻ mà chỉ có cái nào là chính mà thôi.

Chứng cổ trướng trên lâm sàng gặp trong nhiều loại bệnh như Xơ Gan Cổ Trướng, Hội Chứng Gan Lách To, Thận Hư Nhiễm Mỡ, Lao Màng Bụng, Ung Thư Ổ Bụng.

Xem thêm bài Xơ Gan.

Nguyên Nhân

Theo Y học hiện đại: trong cổ trướng tự do, dịch thâm nhập vào ổ màng bụng có thể có hai nguồn gốc:Từ màng bụng tiết ra, do màng bụng bị nhiễm khuẩn, bị kích thích: đó là Cổ trướng xuất tiết biểu hiện trong xét nghiệm sinh hóa qua phản ứng Rivalta dương tính và đậm độ Protein cao. Gặp trong Lao màng bụng, Ung thư màng bụng tiên phát hoặc hậu phát.Từ các tổ chức chung quanh màng bụng thẩm thấu vào ổ bụng. Đó là Cổ trướng thẩm thấu Biểu hiện qua Rivalta âm tính có đậm độ Protein thấp. Các trường hợp bệnh lý gây ứ trệ tuần hoàn hồi quy hoặc ứ trệ hệ thống tĩnh mạch cửa và các trường hợp gây phù nề nhiều do thay đổi áp lực keo trong máu, do ứ NaCl hoặc do cường Aldosteron thứ phát đều có thể gây cổ trướng thẩm thấu. Thường gặp trong Xơ Gan, Ung Thư Gan, Viêm Tắc Tĩnh Mạch Cửa, Viêm Thận Mạn, Thận Hư Nhiễm Mỡ, Suy Tim Kéo Dài, Suy Dinh Dưỡng.

Theo các sách Đông y, qui nạp lại có mấy nguyên nhân sau:

Rối loạn tình chí thất tình: Sự rối loạn tình chí con người sinh chứng cổ trướng, thí dụ như hay tức giận hại can, can khí uất làm tổn thương tỳ khí can khắc tỳ, chức năng vận hóa của tỳ rối loạn gây nên bệnh. mặt khác, ưu tư lo lắng nhiều làm hại tỳ… đây là yếu tố tinh thần ảnh hưởng xấu đến bệnh tật.

2. Ăn uống thiếu điều độ: ăn quá no, nhiều chất béo, mỡ, uống nhiều rượu bia cũng hại tỳ khiến cho chức năng vận hóa của Tỳ bị rối loạn sinh bệnh.

3. Bệnh tật lâu ngày nhất là bệnh gan thận làm cho cơ thể, tạng phủ mà chủ yếu là tỳ thận hư nhược, vận hóa rối loạn sinh cổ trướng.

4. Lao lực, phòng dục quá độ, tinh, khí huyết suy giảm cũng gây tổn thương can, tỳ, thận.

5. Một số nguyên nhân khác như trùng tích chủ yếu là hấp huyết trùng schistospmiasis, hàn tích do ăn nhiều chất sống lạnh, hàn nội sinh tích tụ ở trung tiêu làm tổn thương tỳ vị.

Bệnh lý chủ yếu là do 3 tạng Can, Tỳ, Thận bị tổn thương: can khí uất kết, mạch lạc không thông đạt, khí huyết tích tụ gây bỉ mãn. Tỳ vị hư yếu thủy cốc đình trệ, bệnh lâu ngày thận khí suy không chủ được thủy gây ra cổ trướng. Ở mức độ nhất định, bệnh của tâm và phế tâm chủ huyết, phế chủ khí cũng ảnh hưởng đến sự hình thành cổ trướng.

Biểu Hiện Của Cổ Trướng

Tùy theo số lượng dịch nhiều hoặc ít trong ổ màng bụng mà cổ trướng thuộc loại nhiều, trung bình hoặc ít. Cổ trướng càng to, càng dễ chẩn đoán.

Nhìn: Bụng to, xệ xuống khi đứng và bè sang hai bên khi nằm ngửa, rốn lồi thường lồi nhiều hoặc ít.

Sờ: bụng mềm hoặc căng nhiều hoặc ít tùy số lượng nước trong ổ màng bụng.

Gõ: là dấu hiệu quan trọng nhất. Bảo người bệnh nằm nghiêng sang bên phải rồi bên trái, thầy thuốc gõ ở vùng thấp của bụng trong mỗi tư thế đó. Bình thường các vùng đó dù ở tư thế nào cũng vẫn trong. Khi có cổ trướng, do dịch tập trung vào các vùng thấp, gõ sẽ thấy các vùng đó bị đục và giới hạn trên của vùng đục là một đường cong ngửa lên trên một yếu tố cần chú ý để phân biệt với nang nước. Gõ đục vùng thấp không những có giá trị xác định cổ trướng mà còn xác định cổ trướng đó là loại cổ trướng tự do.

Biện Chứng Luận Trị

Biện chứng luận trị cổ trướng thường chia làm 2 thể bệnh chính: Thực Trướng là bệnh mới mắc, cơ thể người bệnh còn khỏe, phép trị chủ yếu là khu tà bao gồm hành khí, tiêu tích, trục thủy, phá ứ. Hư Trướng là bệnh đã lâu ngày, cơ thể người bệnh yếu, phép trị chủ yếu là bổ hư, tư dưỡng can, kiện tỳ, ích thận là chính. Tuy nhiên chứng cổ trướng đa số là bản hư tiêu thực, cho nên phép trị chính vẫn là phù chính công tà, tiêu bản kiêm trị “.

THỰC TRƯỚNG

Khí Trệ Thấp Ứ: Mạn sườn đau có lúc, ấn có cục mềm, tức, bụng đầy, ăn ít, ợ hơi, tiểu ít, rêu lưỡi trắng nhạt, mạch Huyền.

Điều trị: Sơ can, lý khí, trừ thấp.

Dùng bài Sài Hồ Sơ Can Tán gia giảm Cảnh Nhạc Toàn Thư: Sài hồ, Chỉ xác, Thược dược, Cam thảo, Hương phụ, Xuyên khung.

Sài hồ, Bạch thược, Xuyên khung, Cam thảo, Chỉ xác, Hương phụ sơ can, lý khí, kiện tỳ. Thêm Xa tiền tử, Trư linh, Trạch tả để lợi thấp.

Bụng đầy thêm Mộc hương, Đại phúc bì để hành khí. Trường hợp nặng, thêm Đại hoàng, Nhân trần, Chi tử để thanh hóa thấp nhiệt. Hàn thấp bụng đầy, tiêu lỏng, thêm ‘Hương Sa Lục Quân Hoàn mỗi lần 6 – 8g, ngày 2 lần với nước gừng.

2. Nhiệt Uất Huyết Ứ: Bụng đầy cứng, đau, sắc mặt vàng xậm hoặc da mặt vàng, đầu cổ lưng ngực bụng có vết máu vạch, môi tím, bứt rứt, miệng khô, tiểu ít, nước tiểu vàng, táo bón, chất lưỡi đỏ, rêu vàng dày, mạch Huyền Sác.

Điều trị: Thanh nhiệt, lợi thấp, hoạt huyết, hoá ứ.

Dùng bài Nhân Trần Cao Thang Thương Hàn Luận: Nhân trần, Sơn chi, Đại hoàng. hợp với Hoá Ứ Thang gia giảm Nghiệm Phương: Đương qui, Xích thược, Đào nhân, Hồng hoa, Đan sâm, Sơn giáp, Bạch truật..

Nhân trần, Sơn chi, Đại hoàng để thanh nhiệt, lợi thấp, tiêu độc; Đương quy, Xích thược, Đơn bì, Đơn sâm, Thanh bì, Hương phụ để hành khí, hoạt huyết, hoá ứ. Có thể thêm Gừng, Táo để hoà trung.

Bụng nước nhiều có thể dùng ‘Bị Cấp Hoàn để trục thủy Kim Quĩ Yếu Lược: Đại hoàng, Ba đậu, Can khương. Lượng bằng nhau. Ba đậu ép hết dầu thô, tán bột mịn, hoàn với mật ong. mỗi lần uống 1 – 2g.

HƯ TRƯỚNG

Tỳ Thận Dương Hư: Bụng đầy trướng, về chiều tối nặng hơn, mệt mỏi, sợ lạnh, chân tay lạnh hoặc 2 chân phù lõm, tiểu ít, sắc mặt vàng nhợt hoặc tái nhợt, lưỡi tím nhợt, mạch Trầm Tế Huyền.

Điều trị: ôn bổ tỳ thận, hành khí lợi thủy.

Dùng bài Chân Vũ Thang Thương Hàn Luận: Thục Phụ tử, Sinh khương, Bạch truật, Bạch thược.

Phối hợp với Ngũ Bì Ẩm gia giảm Trung Tàng Kinh Tang bạch bì, Sinh khương bì, Đại phúc bì, Bạch linh bì, Trần bì, lượng bằng nhau, chế thành thuốc tán. Mỗi lần uống 8 – 12g.

Thục Phụ tử ôn bổ tỳ thận, Bạch truật, Bạch linh kiện tỳ lợi thủy, Đạïi phúc bì, Trần bì, Tang bạch bì hành khí lợi thủy, Sinh khương ôn tán thủy khí, tăng Tác dụng các thuốc lợi thủy; Bạch thược dưỡng can, chỉ thống, điều hòa tính nóng của Phụ tử.

Có thể cho uống thêm Thận Khí Hoàn Tế Sinh Phương: Thục địa. Sơn dược, Sơn thù, Đan bì. Phục linh, Trạch tả, Phụ tử, Quế nhục, Ngưu tất, Xa tiền để tư âm, trợ dương, hóa khí, lợi thủy.

2. Can Thận Âm Hư: Bụng đầy trướng, nổi gân xanh, người gầy, da khô nóng, sắc da sạm đen, môi tím, miệng khô, bứt rứt, răng và nướu răng chảy máu hoặc chảy máu cam, tiểu ít, vàng đậm, thân lưỡi thon, đỏ thẫm, khô, mạch Huyền Tế Sác.

Điều trị: Tư dưỡng can thận, lương huyết, hóa ứ.

Dùng bài Nhất Quán Tiễn Llễu Châu Y Thoại: Sa sâm. Mạch môn, Đương quy, Sinh địa, Câu kỷ tử, Xuyên luyện tử.

Hợp với Cách Hạ Trục Ứ Thang gia giảm Y Lâm Cải Thác: Ngũ linh chi, Đương qui, Xuyên khung, Đào nhân, Xích thược, Đơn bì, Ô dược, Diên hồ sách, Cam thảo, Hương phụ, Hồng hoa, Chỉ xác.

Sinh địa, Bắc Sa sâm, Mạch môn, Kỷ tử tư dưỡng can thận; Đương qui dưỡng huyết hòa can; Xích thược, Đơn bì thêm Huyền sâm, Địa cốt bì lương huyết; Mao căn lương huyết, chỉ huyết; Ô dược, Hương phụ, Xuyên khung, Đào nhân, Hồng hoa hành khí, hoạt huyết, chỉ thống.

Trường hợp bệnh nhân hôn mê, sốt cao cần dùng viên An Cung Ngưu Hoàng Hoàn Ôn Bệnh Điều Bìện: Ngưu hoàng, Uất kim, Tê giác, Hoàng liên, Chu sa, Băng phiến, Trân châu Ngọc trai, Sơn chi, Hùng hoàng, Hoàng cầm, Xạ hương để cấp cứu, lương huyết, giải độc, thanh nhiệt, khai khiếu.

Trường hợp cổ trướng nặng gây nên khó thở cần công trụïc cổ trướng, có thể dùng một trong những bài sau: Bị Cấp Hoàn Ba đậu bỏ vỏ, ép hết dầu, Đại hoàng, Can khương, lượng bằng nhau, sấy khô, tán bột mịn, luyện mật ong, làm viên, mỗi lần uống 1-2g với nước ấm. Ngũ Công Tán Khiên ngưu tử 120g, Tiểu hồi hương 30g, tán bột, làm viên. Mỗi lần uống l,5-3g, nuốt ngày 1-2 lần. Gia Vị Thập Táo Thang: Đại kích chế dấm, Nguyên hoa, Cam toại, Hổ phách, Trầm hương, Hắc Bạch sửu, lượng bằng nhau, tán bột mịn, trộn đều mỗi lần uống l,5-3g với nưóc sắc Táo tàu. Chu Xa Hoàn Cam toại, Nguyên hoa, Đại kích, Đại hoàng, Hắc sửu, Mộc hương, Trần bì, Thanh bì, Khinh phấn, Binh lang. Mỗi lần uống 07,5 – 1g.

Nói chung cổ trướng là một chứng bệnh nan y trong nhiều loại bệnh nan y cho nên trong điều trị cần hết sức thận trọng. Cần kết hợp với phương pháp điều trị Tây y, thí dụ như có thể vừa cho thuốc trục thủy vừa phải truyền dịch cho khỏi mất tân dịch hoặc đối với các tình huống bệnh nguy kịch cần kết hợp Tây y cấp cứu kịp thời.

Những bài thuốc trục thủy có thể dùng trị chứng cổ trướng trị tiêu:

l Bột Hắc, Bạch sửu. Mỗi lần 1,5 – 3g, ngày uống l – 2 lần.

2 Ngô công tán bột, Hắc bạch sửu 120g, Tiểu hồi hương 3 – 5g. Tán bột mịn, mỗi lần uống nuốt 1,5 – 3g, ngày 1 – 2 lần.

3 Bột Cam toại, mỗi lần uống nuốt 0,5 – 1g. Thuốc xổ mạnh vì vậy cần lưu ý lúc dùng.

Có thể dùng thang Lý Ngư Xích Tiểâu Đậu Thang: Cá chép 1 con 500g, đánh vảy sạch, bỏ lòng ruột. Xích tiểu đậu 60g, không cho muối, nấu chín nhừ lọc qua vải lấy nước uống, ngày uống 1 thang, uống liền trong 2-3 tuần có kết qủa tốt.

BỆNH ÁN CỔ TRƯỚNG

Trích trong Trung Y Lâm Sàng Chẩn Liệu Bách Khoa Toàn Thư

Chu X, nữ, 35 tuổi.

Bệnh sử: Tháng 3-1965, sau khi sinh nở, kém ăn, yếu sức. Trước đây 2 tuần, thấy đi tiểu ít, trướng bụng, chân phù. Năm 1958 sau lần sinh thứ tư, cũng phát bệnh như vậy. Xét nghiệm: Vòng bụng 103 cm, thể trọng 138 cân cân Trung quốc. Tròng trắng mắt mầu vàng, da vàng chưa rõ rệt, chưa xuất hiện dấu mạng nhện dấu sao. Tim phổi bình thường, Gan Lách không to, gõ có âm đục và chi dưới phù, ấn lõm +.

Chẩn đoán: Cổ trướng sơ Gan phúc thủy.

Y án: Bệnh nhân sau sinh nở khí huyết đều suy, TỳVị yếu, thủy thấp ứ đọng đến nỗi bụng to như cái trống, chân phù, ăn không ngon, thấp uất hóa nhiệt, nung nấu không giải được cho nên mặt và mắt vàng, tiểu ít và đỏ. Dùng các phương thuốc ích khí, thanh nhiệt, lợi thấp, bệnh không giảm.- Đó là thủy tà bành rường, chính khí không thắng nổi tà khí gây nên. Giờ nên coi trọng lợi thủy, hỗ trợ thuốc ích khí. Cho dùng Mộc phòng kỷ 12g, Xuyên tiêu mục 12g, Điều đình lịch 12g, Sinh xuyên quân 8g, Tang bạch bì 16g, Đại phúc bì 12 g, Xích linh 12g, Trư linh 12g, Xa tiền tử 40g, Hoàng kỳ 20g, Trần bì 8g, Hồng hoa 6g. Sau khi uống thuốc 1 tuần, lượng tiểu tiện chưa tăng rõ rệt, nhưng trướng bụng hơi giảm, ăn cũng khá hơn, cho thấy vận hóa của Vị đã có xu thế khôi phục dần, nhưng thủy tà chưa lui, cần cho thuốc lợi thủy nặng hơn. Vì vậy tăng Đình lịch lên thành 40g; Ngày hôm tăng lượng thuốc, tiểu tiện nhiều hơn, lượng nước uống vào với lượng tiểu tiện cân bằng, những ngày sau có phần còn nhiều hơn, trướng bụng đỡ nhiều, chu vi vòng bụng cũng nhỏ đi, ăn có tiến bộ rõ rệt. Uống đơn thuốc này tiếp tục 1 tháng. Kiểm tra vòng bụng còn 87cm, thể trạng còn 122 cân, trọc âm di động vùng bụng không rõ nữa. Kiểm tra chức năng Gan, chưa ổn định hoàn toàn. Bệnh nhân vào viện ngày 1 tháng 6 năm 1965, ra viện ngày 24 tháng 7, cộng 53 ngày. Tình trạng ra viện nói chung khá tốt, sau đó bệnh nhân tiếp tục đến khám 2 lần nữa. Sau đó 5 tháng, viết thư kể sức khỏe rất tốt.

Nhận xét: Bệnh nhân phúc thủy sơ Gan, biểu hiện chứng hậu Tỳ Vị hư nhược nhưng lại có tình huống nghiêng về thủy thấp nặng, chính khí không thắng nồi tà khí. Vì vậy trong điều kiện mới dùng thang thuốc liều cao vừa ích khí vừa khư tà. Bệnh án này trước dùng thang thuốc ích khí lợi niệu, kết quả không cao, chỉ sau khi tăng liều lượng Đình lịch, lượng tiểu tiện mới nhiều rõ rệt. Qua đó thì thấy đối với điều trị phúc thủy sơ Gan, trọng dụng Hoàng kỳ để ích khí, kiện Tỳ, Đình lịch tử để tả Phế trục thủy, rõ ràng có Tác dụng nhất định.

BỆNH ÁN CỔ TRƯỚNG

Trích trong Trung Y Lâm Sàng Chẩn Liệu Bách Khoa Toàn Thư

Bệnh nhân: Nghiêm X, nam, 40 tuổi.

Khám lần 1: Từng bị Cổ trướng năm 1958, đã điều trị khỏi. Năm nay, hồi tháng 3 đi kiểm tra phân có trứng giun móc dương tính. Trước đó 2 tuần bắt đầu thấy tiểu tiện ít, kém ăn, mỏi mệt, sắc mặt vàng bủng, mắt vàng, tính tình nóng nảy, Gan to dưới bờ sườn 2 khoát, mạch Trầm Huyền, chất lưỡi xanh nhợt, rêu lưỡi mỏng. Bệnh thuộc loại khí trệ huyết ứ, nước đục ứ đọng.

Điều trị hướng sơ Can lý khí, hóa ứ hành thủy. Dùng Sài hồ 6g, Xích thược 12g, Chỉ xác sao 8g, Uất kim 12g, Mộc hương 6g, Thanh bì 12g, Trần bì 12g, Đan sâm 20g, Xích linh 12g, Trư linh 12g, Xa tiền tử 40, Xuyên tiêu mục 12g, Đình lịch tử 12g.

Khám lần 2: sau khi uống 4 thang, mặt vàng hơi bớt, tiểu tiện nhiều, bụng trướng giảm dần, ăn khá hơn, tinh thần tỉnh táo, nhưng hai chân còn cảm giác yếu sức, tính tình nóng nẩy, tình trạng bệnh hơi có khởi sắc, tiếp tục theo phương pháp cũ, đơn thuốc trên tăng Đình lịch tử lên 20 gam.

Khám lần 3: Bụng trướng tiếp tục giảm, tiểu tiện thông lợi vàng mặt nhạt hơn, tinh thần và ăn uống khá, chất lưỡi đỏ, khô miệng, mạch Tiểu Huyền, tà khí lui, chính khí hư, vẫn dùng nguyên phương gia giảm, đơn thuốc cũ bỏ Đình lịch tử, gia Xuyên Thạch hộc 16 gam.

Khám lần 4: Bụng trướng đã nhẽo, to bụng giảm rõ rệt ăn tốt, đã hết vàng mắt, đã lao động bình thường, nhưng hai chân còn cảm giác yếu, mạch Tế, chất lưỡi đỏ nhạt, điều trị tiếp bằng thuốc hoàn. Hoàng kỳ phiến, mỗi phiến trọng lượng 1 gam, mỗi lần dùng 5 phiến, ngày uống 2 lần. Sau khi uống liên tục 10 ngày, bệnh nhân đã làm nông nghiệp bình thường, tinh thần sảng khoái, theo lời kể 1 tháng trở lại, vùng bụng nhẹ nhàng, tiểu tiện bình thường, ăn uống rất tốt.

Nhận xét: Bệnh nhân khám lần đầu ngày 16 tháng 10 năm 1965 vòng bụng 90cm, sau khi điều trị, phúc thủy rút đi nhanh. Uống được 11 thang, vòng bụng chỉ còn 78cm; trướng bụng tiêu trừ cơ bản. Ngày 20 tháng 12 cho bệnh nhân uống thuốc chữa huyết hấp trùng.

Bệnh nhân bị huyết hấp trùng giai đoạn cuối, khí trệ huyết ứ, thủy trọc ứ đọng dẫn đến phúc thủy. Ngoài các triệu chứng bụng to tiểu tiện ít, mấu chốt là ở tình tự nóng nảy, mạch Trầm Huyền, chất lưỡi xanh nhạt, đó chủ yếu là chứng hậu khí trệ huyết ứ, cho

nên lập pháp sử phương, đầu tiên coi trọng sơ Can lý khí, hỗ trợ bằng hóa ứ lợi thủy mà thu được kết quả. Nếu quả là chỉ lợi thủy đơn thuần mà không chú ý tới Can lý khí, cho dù dùng liều cao thông lợi tiểu tiện thậm chí dùng thuốc trục thủy mạnh cũng khó

làm cho tiểu tiện thông lợi, phúc thủy tiêu đi. Cuối cùng, dùng độc vị Hoàng kỳ phiến nhằm ích khí để hành thủy, củng cố hiệu quả, đề phòng phúc thủy tái phát.

Bệnh Án Xơ Gan Cổ Trướng Do Thấp Nhiệt Ủng Trệ

Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng

Phan XX, nam 45 tuổi, nông dân, Khám lần đầu ngày 18-5-1963. Trong một tháng lại đây bụng mỗi ngày một to ra như­ cái trống, bệnh viện chẩn đoán là xơ gan cổ trướng kèm lách to lên. Gan lách đều to 6cm. Sắc mặt vàng, mặt có nếp nhăn, nướu răng chảy máut, ăn không được, n­ước tiểu ít, đỏ, mạch Huyền Sác, chất lưỡi đỏ, rêu vàng bẩn. Bệnh này thuộc chứng thấp nhiệt ủng trệ, n­ước tụ, khí trệ, huyết ứ, cổ trướng. Điều trị: phải thanh nhiệt, hóa thấp, trục ứ, tiêu thũng. Cho dùng bài Hóa Thấp Trục Ứ Tiêu Thũng Thang Miết giáp 30g, Cù mạch 30g, Xa tiền tử 20g, Tam lăng 6g, Nga truật 6g, Phục linh 12g, Trạch tả 18g, Xuyên giáp 6g, Xích th­ợc 10g, Đào nhân 9g, Tiểu kế 30g, Phúc bì 12g, Hồ lô nửa quả. Sắc uống, mỗi ngày 1 thang.. Sau khi uống 5 thang nữa, đồng thời pha 30g Đại Tiểu kế nấu thành nư­ớc thay trà uống nhiều lần. Uống xong bụng nư­ớc rút hết, ăn uống dần tăng lên, lách co lại. Tiếp theo cho thêm một số vị kiện tì d­ưỡng huyết như­ Đảng sâm, Hoàng kỳ, Đ­ương qui v.v… vào bài thuốc trên, uống liền trong hơn 4 tháng. Thời gian uống kiêng muối. Lách bệnh nhân trở lại như­ bình thường, các chứng bệnh tiêu tan, đã có thể làm một số công việc đồng áng. Theo dõi người bệnh 15 năm, không thấy tái phát.

Bệnh Án Xơ Gan Cổ Trướng Do Can Uất Khí Trệ, Tỳ Vị Hư Tổn

Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng

Khương XX, nam, 47 tuổi, nông dân. Người bệnh tiêu hóa không tốt, bụng trướng, nặng nhất là về ban đêm, đã 7-8 năm, khám ở một bệnh viện chẩn đoán là viêm gan mạn tính, xơ gan giai đoạn đầu. 3 tháng gần đây bệnh nặng lên, ăn uống giảm sút, tiêu hóa kém, bụng trướng tăng. Toàn thân yếu sức, gầy còm, bụng to dần như­ cái trống, n­ước tiểu ít, màu vàng. Mạch Trầm, Hoãn. Đã rút nư­ớc ở bụng 2 lần, mỗi lần 1000ml. Điều trị:phải hành khí lợi thủy, thư­ can giải uất. Cho uống phối hợp Thanh Oa Tán với Mẫu Kê Sâm Kỳ Thang. Sau khi dùng thuốc 100 ngày, cổ trướng rút hết, các chứng dần tiến triển, đã có thể làm các công việc chân tay thông thường.

Bệnh Án Xơ Gan Cổ Trướng Do Thấp Nhiệt Đình Trệ

Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng

Từ X X, nam, 58 tuổi. Bệnh nhân vốn nghiện r­ượu, ăn ít bụng trướng. Gần đây lư­ợng nư­ớc tiêu giảm, bụng căng như­ trống. Xét nghiệm chức năng gan thấy tỉ lệ albumin/globulin đảo ngư­ợc, chẩn đoán là xơ gan cổ trướng. Dùng thuốc đông y và tân dược để chữa nhưng kết quả không rõ rệt. Do người bệnh vốn nghiện rượu nên gan lách đều bị thương tổn, thể hiện sắc mặt xạm đen, mũi đỏ, không đói, tiểu tiện ít, miệng hơi đắng bụng trướng đầy, lưỡi hơi đỏ, rêu đục bẩn, mạch Huyền Sác. Đó là do thấp nhiệt giao trở, gan lách tổn thương dẫn đến tắc nghẽn đường dẫn mà thành cổ trướng. Cho uống Đan Khê Tiểu Ôn Trung Hoàn Bạch truật 60g, Phục linh 30g, Trần bì 30g, Khương bán hạ 30g, Sinh cam thảo 10g, Tiêu thần khúc 30g, Sinh hương phụ 45g, Khổ sâm 15g, Hoàng liên sao 15g, C­ương châm xa 45g tẩm dấm sao đỏ, tán nhỏ. Các vị thuốc trên sau khi tán thành bột mịn, lấy dấm và nư­ớc mỗi thứ một nửa trộn thành hồ Thần khúc rồi làm hoàn to bằng hạt ngô đồng, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 70-80 hoàn, uống với nư­ớc thuốc sau: Bạch truật 18g, Trần bì 3g, Sinh khương 1 lát, sắc uống. Đối với người bệnh hư­ nặng, thì bỏ vị Hoàng liên, thêm Hậu phác 15g., trước hết đem thuốc hoàn sắc thành thang để uống 10 thang rồi mới dùng thuốc hoàn 500g. Sau khi uống thuốc, bụng trướng giảm dần, tiểu tiện trong và dài, các chứng chuyển biến tốt rõ rệt. Lại cho uống 1000 hoàn, uống xong hết cổ trướng, ăn ngon hơn, kiểm tra chức năng gan, tỷ lệ albumin/globulin trở lại bình thường, đã có thể tham gia công tác như­ thường. Theo dõi vài tháng thấy sức khoẻ vẫn tốt.

Bàn luận: Đan Khê Tiểu Ôn Trung Hoàn do Chu Đan Khê sáng chế. Dùng bài thuốc này chữa xơ gan, đặc biệt là với bệnh nhân có tỉ lệ albumin/globulin đảo ngư­ợc, dù là có cổ trướng hay không đều thu được hiệu quả tốt. Thông thường uống từ 180g đến 210g là có thể khiến nư­ớc tiểu trong và nhiều, bệnh nặng thì uống 500g đã được nh­ư thế. Một số bệnh nhân sau khi đã hết các triệu chứng bệnh chức năng gan bình thường thì ngừng thuốc, nhưng rồi do không điều độ, làm việc quá sức thì lại tái phát, khi đó lại dùng bài thuốc trên vẫn có hiệu quả tốt. Những bệnh nhân loại này được chữa khỏi đã 20 năm mà vẫn khoẻ mạnh. Vị C­ương châm sa trong bài thuốc còn có tên là Châm sa hay C­ương sa.

Bài trướcCơn Đau Quặn Thận Trong Đông Y
Bài tiếp theoChứng Tý | Đông Y

BÌNH LUẬN

Nhập nội dung bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.