A THỊ HUYỆT

阿是穴

(Ashi,Points E Shi, E Shi Point, Bu Ding Xue, Tian Ying Xue.)

  • A Thị huyệt là gì?

A THỊ HUYỆT
A THỊ HUYỆT

A Thị huyệt là điểm nhạy cảm với các vị trí phản ứng cục bộ đau như một phần của các điểm điều trị bằng châm cứu .
Là loại huyệt gây đau tại chỗ hoặc điểm phản ứng của chỗ đau (với mỏi, tê, sưng, đau, nặng hoặc tại chỗ, đổi màu, biến đổi cứng, sưng tấy,…) như một loại huyệt đạo . Ý nghĩa của điểm A thị được phát triển từ “Nội kinh”, nhưng cái tên “A thị” lần đầu tiên được thấy trong “Thiện kim yếu phương”. Chúng không có tên cụ thể (tất cả các huyệt được gọi là huyệt A thị), và chúng không có vị trí cố định (bất kỳ huyệt nào được gọi là huyệt A thị), và chức năng chính của chúng cũng không rõ ràng lắm. A là về tình trạng bệnh), nhưng nó có hiệu quả trong việc điều trị bệnh (và thường có tác dụng thần kỳ). Trong thực hành lâm sàng, các bác sĩ chỉ định tạm thời dựa trên cảm giác đau, tê, sưng, đau, tức nặng và những thay đổi của da trong quá trình ấn.
Điểm A thị có thể xuất hiện ở bất kỳ vị trí nào trên cơ thể, đây là hiện tượng xuất hiện huyệt tạm thời. Khi có bệnh, một bộ phận nào đó trong cơ thể con người sẽ có sự ứ trệ khí và huyết tương ứng, dẫn đến khí và huyết bị tích tụ cục bộ và tạm thời, sinh ra hiện tượng trên. Khi bệnh này thuyên giảm thì khí và huyết tích tụ tạm thời cũng thuyên giảm, hiện tượng điểm A thị cũng biến mất. Có thể thấy rằng điểm A thị không phải là một điểm cố định và cụ thể. Ý nghĩa của điểm A thị khác với việc “lấy đau làm giảm bớt bệnh tật”. “Lấy đau để mất” xuất phát từ chương “ Linh khu · Kinh Cân”: “Lấy đau để mất, đốt kim rồi châm.” Nó chủ yếu để chọn huyệt và phương pháp châm cứu cho các bệnh về cơ kinh mạch. Thương tổn là kinh lạc, biểu hiện lâm sàng chủ yếu là đau. Điểm A thị được xác định bởi nhiều loại cảm giác toàn diện như nhanh chóng và “giảm đau đớn”. Các cảm giác khác nhau tại các huyệt đạo nhiều lần được đề cập đến trong “ Nội Kinh ”, ví dụ như “Linh khu· Ngũ  tà” nói: “Tà ở phổi… lấy huyệt ở Vùng Du huyệt tương ứng với lồng ngực cạnh đốt sống thứ 3, lấy tay ấn hoặc châm chích vào đó”. “Tố vấn – thích yêu thống luận” viết:” Theo sự tuần hành của kinh mạch mà châm”. “Tố vấn – Cốt không luận” viết:” Ấn vào mà cứng đau như Gân thì cứu” . Tất cả những điều nói trên đều là tương tự như A thị huyệt, và người ta cho vào phạm trù của A thị huyệt. A thị huyệt là từ nội hàm” dĩ thống vi du” (“以痛为输”) tức là lấy theo điểm đau, ý nghĩa hết sứ phong phú.

A THỊ HUYỆT
A THỊ HUYỆT

*Tên Hán Việt khác của A thị huyệt:

Bất-định huyệt, Thiên-ứng huyệt, Mô tả huyệt Những huyệt không có vị trí cố định, cũng không tồn tại mãi mãi, chỉ xuất hiện ở những chỗ thấy đau mà thôi. Đó cũng không phải là những huyệt của kinh mạch chính và huyệt ngoài đường kinh (Kinh ngoại kỳ huyệt). A thị huyệt có đặc tính là khi châm hay cứu vào đó chữa được những chứng đau nhức tại chỗ rất tốt vì có tác dụng lưu thông khí huyết.

Thường thường bệnh trong nội tạng phản xạ ra ở vùng nào đó bên ngoài cơ thể bởi một vài điếm đè vào có cảm giác đau. Vị trí của A-thị-huyệt không cố định, tùy bệnh và tùy thể chất từng người mà thay đổi, thường hay xuất hiện ổ Bối- du huyệt (Du huyệt ổ trên lưng), Mộ huyệt và gần nơi Ngũ-du huyệt ỏ cẳng tay cẳng chân. Thường tìm những huyệt này bằng cách đè vào những điểm đó thấy đau.

A THỊ HUYỆT
A THỊ HUYỆT

Tham khảo

1.    «Hán thư – Đông Phương Sóc» Nhan Sư Cô ghi chữ “A” có nghĩa là đau khi đè lên nơi có chỗ đau thi bệnh nhân la lên rằng “A đau”. Làm cho đau nhiều, thì bệnh nhân kêu “A a”.

2.    «Thiên kim phương», Tôn Tư Mạo, quyên thứ 29, dời Đường ghi rằng : “Nước Ngô, nước Thục dùng cứu có phép A thị, mỗi khi có bệnh đau thì bóp nắn ở trên đó, nơi chỗ đau ấy mặc du không có huyệt nhưng vẫn dễ chịu gọi là “A thị” Châm cứu trên đó thấy có hiệu nghiệm nên gọi là “A-thi-huyệt” (A thị-huyệt có nghĩa là người bệnh có cảm giác đau kêu A lên khi đè vào, tức la huyệt), nghĩa là lấy huyệt tại chỗ đau vậy”.

3.    «Biên Thước thần ứng châm cứu ngọc long kinh>> gọi A thị-huyệt là “Bất-định huyệt”.

4. «Y học cương mục» gọi A-thị-huyệt là “Thiên-ứng huyệt”.
5. «Nội kinh» ghi rằng: “Dĩ thông vi du” (Lấy nơi đau đê làm vị trí huyệt).

A THỊ HUYỆT
A THỊ HUYỆT
Bài trướcBÀI THUỐC CHỮA TRÀNG NHẠC
Bài tiếp theoA THỊ HUYỆT

BÌNH LUẬN

Nhập nội dung bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.