Phương thuốc chữa ung sang

Phương thuốc chữa ung sang có tác dụng giải độc tiêu sưng, đẩy mủ từ trong và vỡ ra ngoài, sinh cơ để hàn vết loét, các phương thuốc này dùng chữa các chứng ung thư, sang, đinh độc lưu trú, anh lựu, loa lịch ở phần biểu và các ung thư ở nội tạng.

Bệnh có thể do nguyên nhân bên trong như thất tình, ăn cay nóng quá nhiều, do nguyên nhân bên ngoài như lục dâm, bỏng, bị đao thương, bị trùng cắn, chấn thương. Các nguyên nhân này làm kinh mạch bị trở trệ, khí huyết không hoà, tích ứ lâu hoá hoả, nặng thì thối làm mủ, hoặc bên trong sinh ra hàn, thấp, đờm lưu chú (chảy đến) kinh mạch, cơ nhục, hoặc nằm ở giữa khớp, gân, màng xương.

Ung sang ở phần biểu có biểu hiện bằng sưng, khu trú, da đỏ, nóng rát là chứng dương. Nếu có biểu hiện sưng không rõ, cứng hoặc mềm như bỏng, không khu trú, màu da không thay đổi là chứng âm. Ung sang ở tạng phủ có phế ung, trường ung, đã có mủ và chưa có mủ.

Chữa ung sang ở biểu, có chữa ngoài như cao dán có lỗ, cao dán, rạch và thắt chỉ; chữa trong với các phép tiêu, thác, bổ.

Phép tiêu dùng ở lúc chưa thành mủ để tiêu sưng tán độc. Phép tiêu gồm giải biểu, thông lý, thanh nhiệt, ôn thông, trừ đờm, hành khí, hoạt huyết hành ứ.

Phép thác dùng ở lúc đã thành mủ như tà thịnh độc nhiều, hoặc chính khí hư, tà khí đã lọt vào trong, đã thành mủ khó vỡ. Phép thác lại chia ra ngoại thác và nội thác. Ngoại thác để tiêu thấu mủ ra ngoài, kiêm phù chính, nội thác lại chia làm phù chính và thấu mủ ra ngoài (thấu nùng).

Phép bổ dùng ở giai đoạn sau khí huyết đều hư, hoặc tỳ vị can thận bất túc, hoặc mủ loãng, miệng khó liền. Bổ để làm cho khí huyết đầy đủ để sinh cơ hàn loét.

Với ung sang ở nội tạng, phải thanh nhiệt giải độc, trục ứ bài mủ, tán kết tiêu sưng.

Những phương thuốc đại biểu: Chứng dương thực nhiệt ở biểu dùng Tiên phương hoạt mệnh ẩm để thanh nhiệt tiêu tán; chứng âm hư hàn dùng Dương hoà thang, Tiểu kim đơn để ôn bổ tán hàn; bệnh do phong nhiệt ở trên (đầu, mặt, cổ, gáy) dùng Ngưu bàng giải cơ thang để sơ tán phong nhiệt; bệnh do khí uất hoả độc ở giữa (bụng, ngực, lưng) dùng Đan chi tiêu dao tán, Hoàng liên giải độc thang dùng để giải uất sơ can, tả hoả giải độc; bệnh thoát thư ở chi dưới, chi trên do kinh mạch ứ tắc, hoả độc uất ở trong dùng Tứ diệu dũng an thang để thanh nhiệt giải độc hoạt huyết hoá ứ. Nếu là chứng tà độc tích kết, khó thấu ra khó vỡ, dùng Hoàng kỳ nội bổ thang để phù chính là chính kiêm thấu mủ làm vỡ cục cứng. Phép bổ chủ yếu dùng trong âm dương, khí huyết đều hư gây ung sang ở biểu, hoặc ung sang khó vỡ khó liền do hư. Bệnh ung sang ở nội tạng như phế ung do đờm nhiệt ứ huyết kết với nhau dùng Vi kinh thang để thanh phế hóa đờm trục ứ bài mủ là chính. Bệnh ở trường có thấp nhiệt uất chưng, khí huyết kết tụ dùng Đại hoàng mẫu đơn thang để tả nhiệt phá ứ, tán kết tiêu sưng.

Bài trướcTiên phương hoạt mệnh ẩm
Bài tiếp theoPhì nhi hoàn

BÌNH LUẬN

Nhập nội dung bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.