Phả hệ đồ

Sự hiểu biết về tiền sử gia đình là một phương pháp rất tốt để phòng ngừa mạnh mẽ để chống lại cái chết trước khi trưởng thành. Bước đầu tiên trong việc phát hiện các rối loạn di truyền kiểu Mendel là xây dựng một phả hệ di truyền về tiền sử gia đình. Mặc dù phả hệ đồ chỉ được dưới 20% các bác sĩ gia đình sử dụng, nhưng chúng rất có ích cho việc chỉ ra các kiểu di truyền. Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng 3/4 số bệnh nhân được chuyển đến đê tư vấn về di truyền có rối loạn mang tính chất gia đình quan trọng mà nó có thể ảnh hưởng đến thai nghén. Các báo cáo đã cho biết có 90% các bác sĩ có thể sử dụng các dữ liệu từ một phả hệ đồ do các đồng nghiệp khác viết. Để tiết kiệm thời gian, người trợ lý y tế có thể bắt đầu hỏi bệnh nhân về tiền sử gia đình của các rối loạn di truyền trước khi bác sĩ có được một tiền sử về y tế hoàn chỉnh. Các thông tin cần thu thập bao gồm những thông tin sau:

  1. Số liệu về nhân khẩu học: tên của những người họ hàng, ngày sinh, tuổi, giới, ngày chết, sẩy thai tự nhiên, và nơi sống của từng người.
  2. Các bệnh tật: lập một danh sách các bệnh mà các thành viên trong gia đình đã mắc.
  3. Các yếu tố xã hội: các mối quan hệ và bản chất của các môi quan hệ này.
  4. Các dữ liệu khác: các cuộc khủng hoảng của gia đình trước đây.

Khi xây dựng phả hệ đồ, đánh dấu ô vuông cho đại diện những thành viên nam giới, khoanh tròn cho đại diện những thành viên là nữ. Nên có đại diện của cả ba thế hệ, mỗi một thế hệ đặt trên một dòng ngang.

Các rối loạn tính trội

Với di truyền tính trội cổ điển thì người bị mắc có bố hoặc mẹ mắc rối loạn này. Thường một người có rối loạn di truyền kết hôn với một người không có rối loạn di truyền thì đứa con sinh ra có 50% khả năng bị mắc bệnh. Trường hợp điển hình, tố bẩm của rối loạn này được mang trên một nhiễm sắc thể, và cấu tạo nhiễm sắc thể của người kia làm thay đổi biểu hiện của sự rối loạn. Tình trạng tính trội thường không làm thay đổi khả năng sinh sản nhưng có xu hướng làm thay đổi chất liệu tạo cấu trúc cho cơ thể. Các rối loạn tính trội như hội chứng Marphan, bệnh Huntington, bệnh u xơ thần kinh, loạn sản sụn, u xơ thần kinh, và chứng tăng cholesterol huyết gia đình. Khoảng 6% các trường hợp ung thư vú là do di truyền tính trội (xem Các dòng họ ung thư, ở phần sau). Khi xây dựng một phả hệ đồ, một câu hỏi sàng lọc tốt đốì với các rối loạn tính trội là: “Có ai trong gia đình anh (chị) mắc một rối loạn nghiêm trọng nào trong thời kỳ trưởng thành hoặc ở tuổi trung niên không?”. Những bệnh dường như xuất hiện ở mỗi một thế hệ thì có xu hướng là di truyền tính trội.

Các rối loạn tính lặn

Với rối loạn di truyền tính lặn cổ điển thì cả hai bố mẹ đều có gen bị rối loạn. Đứa con sinh ra có 25% khả năng mang kiểu gen bình thường, 50% khả năng trở thành người mang gen bất thường, và 25% khả năng mắc rối loạn. Những người mang gen bất thường xu hướng có thuận lợi về sinh sản trong những môi trường nhất định; thí dụ, những người mang gen bất thường có biểu hiện hồng cầu hình liềm thì có sức đề kháng đối với bệnh sốt rét do Falciparum hơn so với những người khác. Các rối’ loạn có xu hướng liên quan đến các enzym, và nếu các anh chị em ruột bị mắc thì mức độ trầm trọng là như nhau bởi vì không có gen biến đổi như trong rối loạn tính trội. Nếu không được điều trị thì các rối loạn tính lặn có xu hướng gây tử vong ở tuổi rất trẻ.

Các câu hỏi sàng lọc có ích cho việc phát hiện các rối loạn tính lặn là: “Trong gia đình anh (chị) có ai bị thai chết lưu không?”, “Trong gia đình anh (chị) có ai có con bị chết hoặc bị ôm nặng trong thời kỳ đầu của tuổi thiếu niên không?”.

Phát hiện. Một chú ý quan trọng khi sàng lọc đối với các rối loạn tính lặn là hỏi quốc tịch của bệnh nhân. Một số những quốc tịch có liên quan với các rối loạn tính lặn, bao gồm như sau.

  1. Xét nghiệm hemoglobin nên làm ở những bệnh nhân có nguồn gôc từ vùng Caribbe, châu Mỹ La Tinh, Địa Trung Hải, hoặc châu Phi để phát hiện bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm hoặc bệnh thiếu máu Cooley (xem Chương 126).
  2. Các bệnh nhân có nguồn gốc người Do Thái Ashkenazi nên kiểm tra để phát hiện bệnh Tay-Sachs và có thể là bệnh Gaucher (1/450 trẻ sinh ra).

Ở một đứa trẻ mới sinh cùng với việc khai thác bệnh sử là làm các xét nghiệm sàng lọc trong phòng thí nghiệm để phát hiện các rối loạn tính lặn. Các trạng thái đòi hỏi phải làm nhiều những xét nghiệm này. Thí dụ như các xét nghiệm về chứng phenylceton niệu, galactose huyết, bệnh hemoglobin. Thời gian lý tưởng để làm các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm là 72 giờ sau khi sinh, tuy nhiên những đứa trẻ mới sinh thường ra viện sớm nên khoảng thời gian này là khó khăn.

Viện Nhi khoa Hoa Kỳ khuyên làm các xét nghiệm sàng lọc ở tất cả trẻ em trước khi xuất viện. Nếu đứa trẻ được ra viện dưới 24 giờ sau khi sinh thì các xét nghiệm sàng lọc nên được làm lại trước khi đứa trẻ được 2 tuần tuổi. Nhiều viện y học khuyên làm sàng lọc lại nếu như xuất viện vào lúc 48 giờ. Việc chẩn đoán phenyl ceton (PKU) và chứng giảm năng tuyến giáp có thể bị bỏ qua nếu như đứa trẻ không được xét nghiệm lại sau khi xuất viện sớm. ở một số trạng thái, cần làm các xét nghiệm sàng lọc khác ở những đứa trẻ mới sinh để phát hiện chứng galactose huyết (với tỷ lệ mắc là 1/50.000 trẻ sinh ra, chứng này liên quan đến việc thiếu enzym cho việc chuyên glucose thành galactose), những bệnh hemoglobin, và sự tăng sản tuyến thượng thận bẩm sinh.

Những đứa trẻ mới sinh ngày càng ốm nặng hơn thường được nghĩ tới có tình trạng nhiễm khuẩn. Ở một đứa trẻ mới sinh bị nôn và dần dần bị hôn mê thì nên xem xét đến một khuyết tật bẩm sinh về chuyển hóa. Cũng vậy, điều quan trọng nên nhớ là một người mẹ có chứng PKU nên có một chế độ ăn kiêng phenylalanin nghiêm ngặt ngay lập tức để chắc chắn rằng tình trạng của người mẹ không gây ra chứng thiểu năng tâm thần ở thai nhi. Một cách lý tưởng, chế độ ăn kiêng này nên bắt đầu trong thời kỳ trước khi thụ thai.

Bệnh xơ nang. Một rối loạn tính lặn gần đây được bàn luận rộng rãi là bệnh xơ nang. Gần 30.000 người ở Mỹ mắc rối loạn này. Khoảng 1/25 người da sáng màu ở Mỹ mang rối loạn này, và những người này thường không có tiền sử gia đình về bệnh xơ nang. Đặc điểm lâm sàng của bệnh xơ nang bao gồm suy tụy (85% số bệnh nhân), bệnh phổi được nhận biết bởi các nhiễm trùng tái phát và chứng giãn phế quản, và chậm phát triên. Hơn 60% sei bệnh nhân được chẩn đoán trong năm đầu tiên của cuộc đòi. Một điều đáng quan tâm là 5% số bệnh nhân được chẩn đoán sau 15 tuổi. Việc chẩn đoán dựa trên nồng độ chlorid trong mồ hôi lớn hơn 60mEq/L và những nghi ngờ lâm sàng của bệnh. Những tiên bộ về kháng sinh, vật lý trị liệu, và dinh dưỡng đã làm tăng tuổi sống trung bình từ 4 năm vào năm 1960 lên 30 năm vào năm 1995. Những tiên bộ hiện tại trong điều trị bao gồm các tác nhân làm phá vỡ dịch nhầy và các thử nghiệm cho điều trị gen.

Năm 1989, gen liên quan tối bệnh xơ nang đã được xác định nằm trên nhiễm sắc thể 7 và mã hóa hệ điều chỉnh tính dẫn qua màng xơ hóa nang protein (cystic fibrosis transmembrane condutance regulator – CFTR), đó là kênh Chlorid trong các tế bào. Sự suy chức năng đối với hoạt động một cách chính xác của kênh này gây ra dư thừa chlorid trong mồ hôi và thay đổi trong cân bằng dịch, mà đến lượt nó làm đặc dịch nhầy trong phổi. Khuyêt tật thường gặp nhất ở các tế bào xơ hóa nang là sự vắng mặt của phenylalanin trong protein (sự thiếu đoạn nhiễm sắc thể). Đối với những bệnh nhân có tiền sử gia đình về bệnh xơ nang và vợ (hoặc chồng) của họ được khuyên làm các xét nghiệm. Có hơn 150 các đột biến của gen xơ hóa nang, và xét nghiệm có thể phát hiện được 85% những người mang gen đó.

Bài trướcCác rối loạn nhiễm sắc thể gây bệnh ở người
Bài tiếp theoUng thư và mối liên hệ với di truyền

BÌNH LUẬN

Nhập nội dung bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.