Cái chết trong những năm 1990 khác với cái chết trong những năm 1900, thời điểm mà các bệnh nhân lão khoa ngày nay mới sinh ra. Ở đầu thế kỷ này người ta thường chết ở nhà và tỷ lệ người chết với sự có mặt của con cái rất cao. Đa số những người chết vì bệnh tật hiện nay là những người ngoài 75 tuổi và trên 70% người Mỹ chết ở các tổ chức từ thiện, ở bệnh viện hoặc là ở các nhà dưỡng lão. Những cái chết ở trong các bệnh viện thường để lại nỗi đau buồn cho các thành viên còn sống trong gia đình. Nguy cơ có hại cho sức khoẻ có thể lớn trong thời gian xảy ra các sự kiện gây tổn thất, nhất là khi người còn sống lại là người già .

Nhiều bác sĩ, bằng mọi giá thường hay đoán chừng cuộc sống của bệnh nhân còn kéo dài được bao lâu nữa. ở giai đoạn cuối của bệnh, những người già và ngay cả một số những người trẻ có thể không chia sẻ giá trị này. Thay vào đó, các mục tiêu giảm đau đớn, tăng cường chức năng cơ thể và tăng chất lượng cuộc sống trở nên nổi trội hơn. Có thể định nghĩa như thế nào về “chất lượng cuộc sống”? Quan niệm về chất lượng của người này có thể không giống với người khác.

Các bác sĩ là những nhà dự đoán tồi về những điều mà người già cho là mức chất lượng cuộc sống thấp. Người già cần đánh giá trung thực cởi mở về sự can thiệp của bác sĩ, điều này có lợi và giới hạn được sự chăm sóc y học. Mặc dù có một số nguy cơ của việc chưa được điều trị, nhưng chăm sóc sức khoẻ có quản lý đã tạo cơ hội cho việc thay đổi trọng tâm của sự chăm sóc, từ tiếp cận dựa trên bệnh tật theo truyền thông sang sự chăm sóc chú trọng tới chức năng cơ thể và dựa vào cộng đồng.

Từ đầu những năm 80 phong trào xây dựng bệnh viện dành cho những người hấp hối đã giúp cho những người bệnh đang hấp hối vẫn duy trì được chất lượng cao của cuộc sống. Gần hai phần ba bệnh nhân ở bệnh viện dành cho người hấp hối ở tuổi trên 65. Bằng cách nhấn mạnh sự tiếp cận bệnh nhân để kiểm soát các triệu chứng, ngay cả khi họ không còn hy vọng vào sự tiến bộ của y khoa, con người vẫn có thể sống một cuộc sống thoả mãn hơn. Những mục tiêu chính của sự chăm sóc là kiểm soát sự đau đớn; phòng ngừa táo bón, trầm cảm hoặc các triệu chứng khác; sự tham gia của gia đình; và chăm sóc tại nhà. MEDICARE* đã thừa nhận ích lợi của giải pháp này nên từ năm 1982 đã tài trợ cho bệnh viện cho người hấp hối. Bác sĩ gia đình phải có kỹ năng đánh giá sự hiện diện của đau đớn và cung cấp các can thiệp thích hợp. Thật đáng tiếc, nghiên cứu chỉ ra rằng hơn 46% bệnh nhân chết trong đau đớn và điều này có thể tốt hơn nếu được sự kiểm soát chặt chẽ của thầy thuốc.

Bài trướcĐặc điểm chung của người Tuổi về hưu
Bài tiếp theoCác xu hướng trong tương lai của Bác sĩ gia đình

BÌNH LUẬN

Nhập nội dung bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.