Cảm lạnh thông thường

Bệnh cảm lạnh thông thường, một bệnh từ thời tiền cổ, được đặc trưng bởi các triệu chứng chủ quan và dấu hiệu khách quan và thường tự khỏi. Các triệu chứng của cảm lạnh thông thường bao gồm chảy nước mũi và nước mắt, ngạt mũi, tắc mũi, chảy dịch sau mũi, đau họng, khàn giọng, ho và khạc đờm.Cảm lạnh thông thường là một chẩn đoán về mặt lâm sàng và thiếu các triệu chứng đặc hiệu bởi vì các bệnh khác như dị ứng và các triệu chứng ban đầu của một số bệnh nặng cũng tương tự như triệu chứng của cảm lạnh. Tại Mỹ, cảm lạnh đã tiêu phí 23 triệu ngày nghỉ việc và 26 triệu ngày nghỉ học mỗi năm.

Hội chứng   Dưới nhóm
Virus coxsakie nhóm A
Viêm họng herpes   1-6,8,10,22
Cảm lạnh thông thường   21
Viêm phổi   9
Bệnh ở tay, chân và miệng   5,10,16
Virus coxsakie nhóm B
Bệnh sốt mùa hè với các triệu chứng hô hấp Tất cả
Đau ngực   Tất cả
Dịch đau cơ cổ   1-5
Virus echo
Bệnh sốt mùa hè   Tất cả
Cảm lạnh thông thường   11,20

Chẩn đoán

Rhinovirus, Coronavirus và Virus hợp bào đường hô hấp là nguyên nhân chủ yếu gây ra cảm lạnh. Đôi khi influenza virus, parainfluenza virus và adenovirus không gây ra các triệu chứng bệnh điển hình của chúng và được coi như là yếu mệt. Có 5 yếu tố để chẩn đoán phân biệt giữa yếu mệt và bệnh do virus là tuổi, dịch tễ học, dấu hiệu thực thể, tiến triển của các triệu chứng và các xét nghiệm.

Tuổi. Rhinovirus là nguyên nhân thường gặp nhất gây bệnh lý đường hô hấp trong độ tuổi từ 5-40 tuổi. Hầu hết biểu hiện của các nhiễm trùng này đều tương tự như cảm lạnh. Virus hợp bào đường hô hấp và parainfluenza virus là nguyên nhân thường gặp ở trẻ dưới 2 tuổi với các biểu hiện giống như cảm lạnh nhưng đột nhiên tiến triển thành bệnh nặng hơn.

Dịch tễ học. Biết được thời điểm bị bệnh và chú ý tối các triệu chứng điển hình của bệnh lan truyền trong cộng đồng sẽ giúp phân biệt giữa cảm lạnh với các bệnh cảnh tương tự khác.

Dấu hiệu thực thể. Các dấu hiệu thực thể là chảy nước mũi và sung huyết mũi cùng với một số triệu chứng khác nhẹ hơn thường có thể tự khỏi. Viêm họng nặng hoặc bất cứ dấu hiệu bất thường nào ở phổi sẽ loại trừ cảm lạnh với các chẩn đoán khác.

Tiến triển của các triệu chứng. Thường vào ngày thứ nhất và thứ hai của một số bệnh khác các biẻu hiện tiền triệu giống như cảm lạnh. Sau vài ngày thì những bệnh này sẽ xuất hiện thêm các triệu chứng mối hoặc nặng hơn, trong khi đó cảm lạnh vẫn tiếp tục giữ nguyên các triệu chứng ban đầu. Bệnh nhân nên thông báo với bác sỹ các triệu chứng thay đổi so với ban đầu.

Xét nghiệm. Ngày nay influenza A và Virus hợp bào đường hô hấp có thể xác định trong vòng 1 giờ bằng test kháng nguyên nhanh có thể mua được trên thị trường. Cấy dịch rửa mũi họng dường như cho kết quả dương tính cao hơn là ngoáy mũi nhưng cả hai phương pháp đều có độ nhạy và độ đặc hiệu. Các virus khác có thể được phân lập do nuôi cấy tổ chức hoặc bằng phương pháp huỳnh quang (TR-FIA) nhưng ít được sử dụng rộng rãi.

Có. nhiều cách xử trí bệnh cảm lạnh. Kháng sinh không có hiệu quả đối với virus. Kháng histamin có chút ít hiệu quả do hệ kinin có vai trò trong việc gây chảy nước mũi và sung huyết mũi hơn là histamin. Kháng histamin làm cho toàn bộ đường hô hấp bị khô và vì vậy có thể gây khó chịu. Ở Mỹ có trên 800 chế phẩm điều trị cảm lạnh có thể mua bán không cần đơn. Các thành phần chông sung huyết mũi có trong một số thuốc có thể có tác dụng tốt nhưng lại nguy hiểm đối với các bệnh nhân tăng huyết áp. Aspirin, acetaminophen, và thuốc kháng viêm không steroid kết hợp với thuốc giảm nhẹ các triệu chứng nhưng lại gây ức chế các đáp ứng kháng thể trung hoà trong huyết thanh và gây tăng cao rõ rệt tỷ lệ đào thải virus. Chúng không nên được sử dụng thường qui nhưng có thể dùng với mục đích làm giảm đau cơ và mệt mỏi. Ngay cả trường hợp hạ sốt cũng không phải là lý do chính đáng để sử dụng acetaminophen và thuốc chống viêm. Nhiệt độ cơ thể tăng cao được chỉ ra là có tác dụng bảo vệ trẻ khỏi các nhiễm virus nặng có nguy cơ tử vong. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng các triệu chứng được cải thiện sau khi làm nóng niêm mạc mũi bằng cách hít hơi nước nóng.

Các phương pháp dân gian như súp gà nóng và vitamin c liều cao được nhiều người làm theo nhưng không được nói tới trong các y văn nghiên cứu. Viên thuốc hình thoi gluconat kẽm cũng có hiệu quả tốt, được coi như là thuốc có thể dùng để điều trị cảm lạnh. Một số nghiên cứu đã chỉ ra kết quả điều trị rất tốt khi dùng kẽm. Liều đủ để cho kết quả tốt thường gây ra tác dụng phụ không thể chấp nhận. Trong tương lai, các thuốc chống rhinovirus và interferon có thể đạt tối mức phát triển để làm giảm nhẹ các triệu chứng và phòng ngừa các nhiễm trùng vượt quá các tác dụng phụ.

Biến chứng và di chứng

Khi đã chẩn đoán đúng là cảm lạnh thì các biến chứng và di chứng của nó thường rất ít. Rhinovirus và coronavirus hầu như không bao giờ tiến triển nặng thêm lên. Các nhiễm trùng do Virus hợp bào đường hô hấp, influenza virus và parainfluenza virus thường khởi phát nhẹ nhưng đột nhiên tiến triển thành bệnh nặng đe doạ tử vong. Adenoviruses và coxsackie virus có thể được coi là nguyên nhân gây cảm lạnh nhưng thường có thêm các triệu chứng khác và diễn biến khác nhau.

Kiểm soát và phòng ngừa

Rửa tay là biện pháp quan trọng nhất để phòng ngừa lan truyền các loại virus này. ĐỐI với rhinovirus và Virus hợp bào đường hô hấp, tiếp xúc trực tiếp với bề mặt lây nhiễm ở mũi hoặc kết mạc mắt của người bệnh có thể bị nhiễm trùng, sử dụng khẩu trang và găng tay và cách ly bệnh nhân bị nhiễm trùng là biện pháp có hiệu quả nhất để hạn chế sự lan truyền virus gây cảm lạnh. Với các triệu chứng nhẹ nhất và nguồn lây nhiễm đa dạng trong cộng đồng thì các biện pháp này thường không thực tế.

Bài trướcCác loại Virus gây nhiễm khuẩn đường hô hấp trên
Bài tiếp theoBệnh do Virus Influenza – Chẩn đoán và điều trị

BÌNH LUẬN

Nhập nội dung bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.