NHÃN KHOA

Nhãn khoa là một khoa chuyên biệt trong hệ thống Y học cổ truyền và được đặt thành một chuyên khoa từ đời nhà Tống (Trung Quốc 960 – 1276). Sau đó trên cơ sở này các thầy thuốc đã bổ sung dần dần qua các thời cho đến nay.

Sinh lý và sự cấu tạo của mắt

Theo Y học cổ truyền:

Theo Y học cổ truyền mắt là một bộ phận bên ngoài nhưng lại có quan hệ với các tạng phủ bên trong (nội tạng).

Liên hệ với Can:

Thiên ‘Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận’ (Tố Vấn 5) ghi: “ Can chủ ở mắt… Khiếu của Can là mắt.”

Thiên ‘Ngũ Tạng Sinh Thành’ (Linh Khu 10) ghi: “Can thụ huyết nhi năng kiến” (Can nhận được huyết thì nhìn thấy).

Thiên ‘Mạch Độ’ (Linh Khu 17) ghi: “Can khí thông lên mắt, Can hoà thì mắt có thể phân biệt được ngũ sắc”.

Thiên ‘Ngũ Duyệt Ngũ Sứ’ (Linh Khu 37) ghi:“ Mắt là khí quan của Can”.

Liên hệ với Tâm:

Tâm chủ huyết mạch, làm chuyển động huyết dịch trong mạch máu. Thiên ‘Ngũ Tạng Sinh Thành’ (Tố Vấn 10) ghi: “Các mạch đều thuộc về mắt”, 12 kinh mạch, khí huyết đều rót vào mắt.

Tâm tàng thần. Thiên ‘Đại Hoặc Luận’ (Linh Khu 80) ghi: “Mắt là sứ của Tâm” (ý nói, người ta thấy sự vật do sự phối hợp với tâm thần.

Liên hệ với Tỳ:

Tỳ là gốc của hậu thiên, chủ vận hoá thuỷ cốc tinh vi. Trong sách ‘Lan Thất Bí Tàng’, Lý Đông Viên viết: “ Tinh khí của ngũ tạng, lục phủ, tiếp thu từ Tỳ, lên trên rót vào mắt”. Tỳ hư yếu làm cho tinh khí của tạng phủ bất túc, không chuyển lên để rót vào mắt, vì thế mắt mất sự nhu dưỡng nên nhìn không rõ, vì vậy, mắt và tạng Tỳ có quan hệ mật thiết với nhau.

Liên hệ với Phế:

Phế chủ khí, hô hấp. Do sự vận hoá của Tỳ Vị mà tinh khí thuỷ cốc và sự hô hấp của Phế kết hợp với nhau, khiến cho Tâm chuyển động, huyết được đưa đi khắp cơ thể, làm ấm và nuôi dưỡng tạng phủ, mắt nhờ đó mà nhìn thấy bình thường. Nếu Phế khí bất túc có thể làm cho mắt bị mờ. Thiên ‘Quyết Khí’ (Linh Khu 30) ghi: “Khí thoát thì mắt nhìn không rõ”.

Liên hệ với Thận:

Thận tàng tinh, nhận tinh khí của tạng phủ. Tinh giúp cho cơ thể hoạt động thiên ‘Đại Hoặc Luận’ (Linh Khu 80) ghi: “Mắt là tinh của tạng phủ. Nếu Thận tinh bất túc thì hai mắt sẽ thiếu thần, nhìn không rõ”. Vì vậy, mắt và Thận có sự liên hệ với nhau.

Ngoài ra mắt cũng liên hệ với ngũ tạng lục phủ.

Thiên ‘Đại Hoặc Luận’ (LKhu 80) ghi:”Tinh khí của 5 Tạng, 6 Phủ đều thông lên kết tụ ở mắt” và chia ra như sau:

(Tinh của cốt ( Thận) kết thành đồng tử (Thủy luân).

(Tinh của cân ( Can) kết thành tròng đen (Phong luân).

(Tinh của huyết (Tâm) kết thành những tia máu (Huyết luân).

(Tinh của khí (Phế) kết thành tròng trắng (Khí luân).

(Tinh của cơ nhục (Tỳ) kết thành mi mắt (Nhục luân).

Việc đặt tên cho Ngũ luân này dựa vào sự quan hệ với nội tạng và căn cứ vào chức năng của mỗi tạng liên hệ, vì theo Đông Y: Tâm chủ huyết (Huyết luân), Thận chủ thủy (Thủy luân), Phế chủ khí (Khí luân), Can chủ phong (Phong luân), Tỳ chủ cơ nhục (Nhục luân).

Thiên ‘Tà Khí Tạng Phủ Bệnh Hình’ (Linh Khu 4) ghi:” Huyết khí ở 12 kinh mạch và 365 đường lạc đều đi lên mặt mà chạy, vào những chỗ hở, thứ dương khí tinh hoa đó chạy vào mắt mà thành con ngươi”.

Như vậy giữa mắt và các tạng phủ, kinh lạc khí huyết cân mạch, xương thịt đều có liên quan với nhau, do đó sự thịnh suy và bệnh biến của tạng phủ khí huyết đều ảnh hưởng đến công năng của mắt.

Ngũ luân là biểu tượïng hình, thể của mắt, xét theo góc độ bề ngoài, nhưng khí lực (sự khí hóa) của mắt từ trong thông ra thì không thể thấy được, và người xưa đã nghiên cứu tìm thấy 8 góc gọi là Bát Quách dựa theo sự vận hành của kinh lạc ứng với bộ vị Bát Quách (theo sách ‘Ngân Hải Tinh Vi’) như sau:

Càn ở phương Tây Bắc, thông với Phế và Đại trường, trên thì vận hóa khí thanh đi lên, dưới thì đẩy (truyền tống) chất căïn bã ra ngoài vì vậy gọi là Truyền Đạo Quách.

Khảm ở chính Bắc, thông với Thận và Bàng Quang. Thận là nơi tàng chứa và sinh ra tinh, do đó được gọi là Tinh Dịch Quách.

Cấn ở Đông bắc, thông với Mệnh môn và Thượng Tiêu là nơi hội tụ các phần ẩm lưu chuyển ra trăm mạch vì vậy gọi là Hội Âm Quách.

Chấn ở chính Đông, thông với Can – Đởm, chuyên vận chuyển các thứ thanh khiết nên gọi là Thanh Tịnh Quách.

Tốn ở Đông Nam, thông với Trung tiêu và lạc của Can, mà lạc của Can lại có chức năng thông huyết, dưỡng Trung tiêu và phân khí huyết để hóa sinh do đó gọi là Dưỡng Hóa Quách.

Ly ở chính Nam, thông với Tâm và Tiểu trường là nơi các phần dương hấp thụ khí vì vậy gọi là Bảo Dương Quách.

Khôn ở Tây Nam, thông với Tỳ Vị, chủ việc thu nạp thủy cốc để nuôi cơ thể, do đó gọi là Thủy Cốc Quách.

Đoài ở chính Tây, thông với Hạ tiêu và lạc của Thận, chủ về Âm tinh, là nguồn suối của cơ quan sinh hóa, vì vậy gọi là Quan Truyền Quách.

Việc chẩn bệnh ở mắt theo Đông Y giữa Luân và Quách có sự khác biệt:

Luân chỉ xem màu sắc (đỏ, xanh, tía…).

Quách thì phân định kinh lạc ở trên Luân to hay nhỏ, cong, thẳng, đường mạch từ đâu xâm nhâïp vào não bộ …

Mắt cũng là 1 vùng phản chiếu của cơ thể, do đó qua mắt có thể biết được phần nào trạng thái rối loạn của cơ quan tạng phủ tương ứng.

Theo các công trình nghiên cứu của Trung Quốc, mắt có liên hệ với ngũ tạng như sau:

NGŨ TẠNG

CƠ QUAN TƯƠNG ỨNG

Can

Tròng Đen

Tâm

Thịt 2 Bên Khoé Mắt

Tỳ

Mi Mắt

Phế

Tròng Trắng

Thận

Con Ngươi

Theo Nội Kinh : “Can khai khiếu ở mắt” do đó mắt có màu đỏ, mắt sưng là dấu hiệu hỏa của Can vượng, mắt mọc thịt, có mộng là dấu hiệu thổ của Can vượng…

Theo Giáo sư Oshawa, những người có mắt Tam Bạch Đản thường chết bất đắc kỳ tử (chết bất ngờ).

Theo tạp chí Spounik số 9/1984, giáo sư Valkhover, đại học y khoa Lumunba, cho rằng: mống mắt cũng có một vùng phản chiếu tương ứng của cơ thể. Theo ông, tổn thương ở 1 cơ quan tạng phủ sẽ phát ra tín hiệu tạo thành xung động thần kinh qua dây thần kinh đến vùng phản chiếu tương ứng ở mống mắt, tạo nên ở mống mắt những vết nhiễm sắc nhạt và ánh sáng sẽ lọt qua nhiều hơn bình thường. Ở giai đoạn mãn tính, những vết này sẽ có màu sẫm nên nhu cầu về ánh sáng giảm bớt… Do đó, những thay đổi về màu sắc ở mống mắt sẽ cho biết về giai đoạn của quá trình viêm nhiễm ở một cơ quan tạng phủ tương ứng nào đó tương ứng.

Màu sắc của mắt cũng rất quan trọng vì mắt là nơi điều tiết ánh sáng: chỉ cho lọt vào mắt một lượng ánh sáng cần thiết. Những người mắt màu xanh cho ánh sáng qua nhiều hơn so với người mắt sẫm. Như vậy, nếu người có cặp mắt lợt, rời bỏ khí hậu quen thuộc của mình đang sống tức là vùng ít nắng để đi sống ở vùng nhiều nắng hơn sẽ dễ bị kích thích quá đáng, dễ gây ra co giật, huyết áp cao. Trái lại, người mắt đen, đang sống ở vùng nhiều ánh sáng, đi đến vùng ít nắng hơn, sẽ trở thành nhu nhược lười biếng mệt mỏi…

Qua thí nghiệm sự nhậy cảm ánh sáng của mắt, các nhà nghiên cứu nhận thấy: người có giác mạc xanh nhạy cảm ánh sáng hơn người mắt nâu sẫm 3 lần và hơn giác mạc đen 4 lần. Như vậy có thể dùng chỉ số này làm tiêu chuẩn để đánh giá sự nhạy cảm của tất cả cơ thể. Thí dụ: Muốn cho thuốc đem lại hiệu quả tốt trong việc điều trị, liều lượng thuốc đối với người mắt đậm có thể phải nhiều và mạnh hơn so với người mắt lợt.

Hình dáng của mắt có 1 vai trò trong sự điều hòa ánh sáng. Người ở vùng nhiều nắng, hay tiếp xúc với ánh nắng (công nhân lao động ở công trường…) trán thường trợt ra sau, vành xương chân mày lồi, mắt nhỏ và sâu. Ngược lại người ở vùng ít nắng. Ít tiếp xúc với ánh sáng (người bệnh nặng phải ở trong nhà, nơi ẩm thấp thiếu ánh sáng…) thường có mặt bẹt, hốc mắt rộng và đôi mắt to.

Lông mi và lông mày cũng giúp điều tiết ánh sáng cho mắt, che bớt ánh sáng vào mắt, do đó, 1 cơ thể yếu, không những sợ quá nhiều ánh sáng mà còn không chịu nổi lượng ánh sáng mà người khác coi là cần thiết, chính vì thế họ có lông mi dài và nhiều.

Theo Y học hiện đại

Theo Y học hiện đại , mắt có hình dạng giống trái cầu (nhãn cầu) chia làm 2 phần: ngoài và trong.

Phần ngoài gọi là vỏ nhãn cầu chia làm 3 lớp từ ngoài vào trong:

Màng bảo vệ: Phía trước trong suốt gọi là giác mạc, phía sau gọi là củng mạc.

Màng Bồ Đào gồm:

Mống mắt (tròng đen): ở giữa có lỗ nhỏ gọi là đồng tử. Mống mắt có nhiệm vụ hạn chế các tia sáng của mạch từ ngoài vào trong, các sắc tố của Mống mắt hủy các tia sáng vào mắt, không qua đồng tử.

Thể mi: Nối tiếp với Mống mắt phía trước và liên tục với mạch lạc phía sau. Nhiệm vụ của Thể mi là tiết ra tinh dịch. Trong Thể mi còn có cơ mi co kéo vào dây chằng- kinh, do đó tham gia vào sự điều tiết của mắt khi mắt nhìn gần.

Mạch (Hắc) mạc: Màng nuôi dưỡng nhãn cầu và nhờ có sắc tố mạch mạc biến nhãn cầu thành 1 buồng tối, tạo điều kiện cho hình của vật hiện rõ trên võng mạc.

Võng mạc: giúp mắt nhận thức được ánh sáng phân biệt được hình thù và màu sắc.

Thủy dịch : chất dưỡng nuôi dưỡng các bộ phận không có mạch máu (giác mạc, thủy tinh thể ) và tham gia vào sự điều hòa nhãn áp …

Thể thủy tinh và Thể pha lê: chuyển các tia sáng từ ngoài vào võng mạc.

Gần đây trong tạp chí Spounik số 9/1984 giáo sư Valkhover và trong “Lupus ban đỏs Micros Systemes des Acupunctaires”, GS Bossy đã nêu lên sự tương quan giữa mống mắt và các cơ quan nội tạng (theo kiểu hệ phản chiếu, theo phương pháp này thì tổn thương ở một cơ quan tạng phủ sẽ phát ra tín hiệu tạo thành xung động (Thần kinh qua dây thần kinh đến vùng phản chiếu ở mống mắt, tạo nên ở mống mắt những vết nhiễm sắc nhạt và ánh sáng sẽ lọt qua nhiều hơn bình thường. Và ở giai đoạn mạn tính những vết này sẽ có màu xám, do đó nhu cầu về ánh sáng sẽ giảm bớt, và những thay đổi về màu sắc ở mống mắt sẽ cho biết về giai đọan của quá trình viêm nhiễm của 1 cơ quan tạng phủ nào đó tương ứng (xin xem hình tương quan giữa mống mắt và các cơ quan tạng phủ).

Nguyên tắc chẩn đoán ở mắt

Bệnh ở mắt có rất nhiều, tuy nhiên quy lại trong 2 phương diện Nội chướng và Ngoại chướng.

Ngoại chướng: Gồm bệnh ở các bộ phận mi mắt, lông mi, khóe mắt, tròng trắng, tròng đen.

Nguyên nhân gây ra ngoại chướng thườøng do ngoại cảm tà khí hoặc bên trong có thấp nhiêït thực trệ, hỏa uất. Chứng trạng lâm sàng thường gặp: Mắt đỏ, mắt sưng, mắt đau, chói, chảy nước mắt, nhiều dử (ghèn), mộng thịt che con ngươi, tròng đen có mây che kèm đau đầu, sợ rét, phát sốt, bụng đầy không muốn ăn… thường là trạng thái hàn nhiệt hữu dư.

b- Nội chướng: gồm các bệnh ở Thủy luân (thể thủy tinh, thể pha lê), võng mạc, đồng tử.

Thường do nội thương, thất tình, uống nhiều rượu, dâm dục quá độ.

Trên lâm sàng thường thấy: đồng tử mất bình thường, ở trong đồng tử sinh ra mây, màng, mắt nhìn tối mờ.

Cách chung: Nội chướng thường do tinh khí suy yếu, hư ở trong.

Bệnh về mắt theo Đông Y được ghi chép và phân ra nhiều loại. Sách ‘Thế Y Đắc Hiệu Phương’ chia ra 23 chứng nội chướng, 45 chứng ngoại chướng. Sách ‘Chứng Trị Chuẩn Thằng’ lại chia ra 160 chứng….

Trong tài liệu này chứng tôi chỉ giới thiệu một số bệnh thường gặp thôi.

Một số điểm cần chú ý khi chữa bệnh mắt

Nhìn tổng quát để đánh giá trạng thái bệnh lý, biểu hiện bệnh lý.

Tác dụng: Lẹo chắp ở mi mắt có thể nghĩ đến:

Viêm mi mắt theo Y học hiện đại .

Bệnh ở Tỳ Vị (theo Đông Y mi mắt thuộc Tỳ)…

Cần để ý đến 1 số điểm đặc biệt:

Đau nhức khó chịu trong mắt

(Đau ở một vị trí nhất định, tăng lên khi mắt hoặc mi mắt, có thể là do dị vật.

(Đau nhức mắt dữ dội kèm theo muốn ói, nghĩ đến nhãn áp cao (Glôcôm).

(Đau chỉ ở mắt : có thể là do Mi mắt viêm (thấp nhiệt ở Tỳ), Kết mạc viêm (thấp nhiệt ở Phế) hoặc do mắt quá căng (đọc sách nhìn tập trung quá lâu…)

(Đau nhức đỏ phần nhiều thuộc về phong nhiệt, Biểu chứng. Đau nhức mà không đỏ phần nhiều thuộc về Hỏa ở Can, Thận thuộc Lý chứng.

(Đau vào buổi sáng do dương hư Âm thịnh, đau vào buổi chiều do Âm hư dương thịnh.

Mắt Đỏ

Nếu hai mi mắt đỏ, sưng, đau đa số thuộc về thực nhiệt ở biểu, do phong nhiệt ở kinh Tỳ gây nên.

Ngoài vành mi hoặc trong mi mắt đỏ tươi, lở loét, thường là thực nhiệt ở lý, do thấp nhiệt ở Tỳ kinh bốc lên.

Tròng trắng đột nhiên đỏ, sưng, đau có nhiều tia máu ở đáy mắt, thường do phong nhiệt ở Phế kinh bốc lên.

Nếu đỏ, loét, dử nhiều như nước mủ là do phong nhiệt hợp với thấp, thuộc thực nhiệt ở Biểu của kinh Phế.

Hai khóe mắt đỏ như máu, thuộc thực nhiệt, do hỏa của Tâm bốc lên.

Tròng trắng ít tia máu, mắt khi thì đỏ nhiều, lúc đỏ ít, kéo dài không khỏi, thường do phần lý bị hư, do hư hỏa ở Tâm và Phế bốc lên.

Chung quanh tròng đen có mầu đỏ sẫm, hoặc tròng trắng biến thành sắc xanh lam, do uất hỏa ở Can và Thận bốc lên.

Chói mắt gặp ở những người

Giác mạc viêm, có dị vật ở giác mạc (Phong nhiệt).

Thần kinh suy nhược (Can, Thận hư).

Thiếu sắc tố ở mống mắt và hắc mạc mắt (Can, Thận hư).

Ngứa

Do dị ứng, nhiễm khuẩn. Do Can hư phong nhiệt công phá ở trên.

Ngứa, đa số do hư hàn

Nếu gặp gió mà ngứa phần nhiều là do Can kinh hư hàn.

Dử (ghèn)

Do nước mắt ứ lại gây ra (thườøng thấy lúc mắt sưng đỏ, phần nhiều do thực nhiệt, nhiễm khuẩn).

Dử ra như mủ, rất dễ gây màng, mộng ở tròng đen.

Dử mắt đọng lại ở 2 khóe mắt do phế bị tà nhiệt.

Nước mắt

Chảy nhiều trong kết mạc và giác mạc bị viêm, lệ đạo bị tắc, thể phong nhiệt.

Không đỏ, không đau mà gặp gió lại chảy nước mắt ra, đó là nước mắt lạnh, thường phát ra ở chứng Hư Hàn vì Can kinh bị hư tổn.

Nước mắt bị suy giảm thường làm cho 2 mắt trở nên khô đó là vì tinh khí của Can Thận bị suy kém không dồn lên trên được.

Rối loạn thị giác: Biến đổi màu sắc, loạn sắc do tổn thương hắc võng mạc, biến đổi ở thể Thủy tinh, thường do Can Thận hư.

Lóa mắt: Nhìn nguồn sáng thấy cầu vồng nhiều màu, trong chứng Nhãn áp cao (Glô côm).

Xuất hiện vật lạ chơi vơi trong mắt như ruồi bay hoặc như màng mây che phủ, gặp trong các chứng Đục thủy tinh thể (ngũ phong nội chướng), Thủy tinh thể chơi vơi (Hắc châu ế, Giải tình ế), hoặc phủ giác mạc do viêm.

Giảm thị lực khi thiếu ánh sáng, trong chứng Quáng gà do thiếu sinh tố A, dây thần kinh thị giác teo (Can Thận hư).

Màng

Là bệnh ở lòng đen.

Màng mây thường bọc hết khắp lòng đen.

Màng lốm đốm: có những điểm hoặc như đường dây hoặc như từng khối nhỏ.

Màng lốm đốm.

Chăm sóc mắt:

Chăm sóc mắt tích cực và đúng mức, có thể tránh được một số tai biến hoặc di chứng có thể dẫn đến hư hỏng mắt.

Bẩm sinh: cận thị, viễn thị, loạn thị, loạn sắc.

Hậu thị: lão thị

Các chứng này được điều chỉnh bằng loại kính thích hợp.

Gây khiếm thị hoặc mù lòa: Tăng nhãn áp, cườm, đục nhân mắt, bong võng mạc…nên chữa càng sớm càng tốt.

Những bệnh viêm các thành phần: Viêm loét giác mạc, bồ đào viêm, viêm kết mạc do vi khuẩn (lậu) hoặc siêu khuẩn, mắt đỏ cấp tính, APC, Herpes… đều có thể làm hư mắt, vì thế nên chữa ngay từ lúc mới phát.

Trẻ nhỏ mới sinh nên nhỏ ngay dung dịch Nitrat Bạc 1% hoặc Penicilline để ngừa khuẩn lậu (lúc chui qua âm đạo)

Không dùng khăn chung với người đang có bệnh, tránh được đau mắt hột và đau mắt cấp tính.

Lao động ngoài trời nên đeo kính mát để không gây hại mắt, đồng thời tránh được dị vật vào mắt (Thóc, lúa…) gây loét giác mạc.

Không bắt mắt làm việc tập trung quá lâu hoặc xem sách ở nơi không đủ ánh sáng, để tránh cận thị, mỏi mắt.

Nên xem vô tuyến truyền hình cách xa 3,5m trong phòng có ánh sáng vừa đủ.

Các loại sinh tố: A cần thiết cho giác mạc, võng mạc thiếu sinh tố A sẽ dễ gây bệnh khô mắt và quáng gà

(Sinh tố B1, B2, B6, B12 cần thiết cho thần kinh thị giác (B2 cho giác mạc, B6 cho mạch máu võng mạc). Thiếu sinh tố B gây mờ mắt do thần kinh thị giác viêm.

(Sinh tố C làm bền vững mạch máu ở kết mạc, võng mạc cần thiết cho thể Thủy tinh.

Các loại sinh tố trên có nhiều trong thịt, cá, trứng, sữa, gan, dầu mỡ, hoa quả, rau tươi, ngũ cốc…vì vậy một chế độ ăn đầy đủ và hài hòa sẽ cung cấp đủ các sinh tố cần thiết cho cơ thể và mắt.

Một số thuốc có thể gây hại cho mắt.

(Dùng quá nhiều ký ninh (Quinin) có thể gây co thắt mạch máu đáy mắt.

(Nhỏ thuốc mắt loại có chất Corticoide (Dexacol…) làm bệnh mắt hột và vết loét giác mạc nặng hơn, nếu nhỏ lâu có thể gây bệnh Glôcôm cấp, đục thủy tinh thể.

(Thuốc Ethambutol (Myambutol) dùng lâu ngày có thể gây mờ mắt.

Bài trướcTạng phủ biện chứng luận trị – tâm, can, tỳ, phế, thận – bệnh học
Bài tiếp theoNguyên Tắc Chẩn Trị Ngoại Khoa | Đông Y

BÌNH LUẬN

Nhập nội dung bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.