KHÁM TĨNH MẠCH
KHÁM LÂM SÀNG
Nhìn:
Tĩnh mạch nổi to và quăn queo ở chân trong trường hợp giãn tĩnh mạch.
Cũng có trường hợp tĩnh mạch nổi to là biểu hiện thứ phát của một bệnh khác như:
Tĩnh mạch cổ nổi trong suy tim.
Các trường hợp xơ gan teo, chèn p tĩnh mạch lớn, viêm tắc tĩnh mạch lớn bện trong,v.v… các tĩnh mạch ngoài nông nổi lên và phát triển các nhánh bên ổ bụng gọi là tuần hoàn bàng hệ. Người ta chia làm ba loại:
Tuần hoàn bàng hệ gánh chủ: Gặp trong bệnh xơ gan, máu trong tĩnh mạch gánh ứ lại đi vào các nhánh phụ để đổ vào tĩnh mạch chủ. Gặp trong các bệnh xơ gan, máu trong tĩnh mạch gánh ứ lại đi vào các nhánh phụ để đổ vào tĩnh mạch chủ trên hay chủ dưới. Trong loại tuần hoàn gánh chủ trên, các nhánh bên xuất hiện nhiều ở trên rốn, ở hạ sườn phải (nối tĩnh mạch gánh với tĩnh mạch chủ trên). Trong loại tuần hoàn gánh chủ ưới, các nhánh bên xuất hiện ở dưới rốn (nối tĩnh mạch gánh với tĩnh mạch củ ưới).
Tuần hoàn hệ chủ- chủ: gặp trong các trường hợp chèn ép hoặc viêm tắc tĩnh mạch chủ ưới, các nhánh bên xuất hiện ở bên bẹn, hai bên bụng dưới đi ngược lên trên (các nhánh nối từ tĩnh mạch chủ phần dưới đi lên tĩnh mạch chủ phần trên chỗ tắc).
Tuần hoàn bàng hệ chủ trên: gặp trong các hội chứng chèn ép trung thất, tĩnh ạmch chủ trên bị đè, máu đổ vào tim phải qua các nhánh phụ. Ta thấy tuần hoàn bàng hệ xuất hiện ở ngực, chủ yếu bên phải, đồng thời có biểu hiện phù áo khoác, tĩnh mạch cảnh nổi to.
Sờ:
Ta có thể sờ được một búi các tĩnh mạch giãn ra như trong truờng hợp giãn tĩnh mạch thừng tinh, giãn đám rối tĩnh mạch khoeo.
Trường hoợp có lỗ thông giữa động mạch và tĩnh mạch, ta sờ thấy rung miu ở da gần chỗ thông.
Nghe: Nếu chỉ khám đơn thuần hệ tĩnh mạch thì không dùng cách nghe. Trong trường hợp có lỗ thông động tĩnh mạch thì nghe gần chỗ thông có thể có tiếng thổi liên tục.
Đo huyết áp tĩnh mạch: áp lực tĩnh mạch đảm bảo cho máu ở tĩnh mạch trở về tim, càng về gần tim áp lực này càng thấp, đến nhĩ phải thì áp lực tĩnh mạch có thể âm.
Khi tuần hoàn tĩnh mạch bị trở ngại ( viêm tắc, ứ trệ, do các bệnh suy tim, xơ gan, chèn p, v.v…) thì áp lực tĩnh mạch tăng lên.
Phương pháp đo áp lực tĩnh mạch: người bệnh nằm ngửa không gối, tay phải đặt song song với cơ thể, kê một gối để tay ở mức cao ngang với mức tim. Ta dùng kim của áp kế tĩnh mạch chọc thẳng vào tĩnh mạch, vì kim này thông với áp kế nên có thể đọc kết quả trực tiếp trên áp kế. Muốn có kết quả chắc chắn thì sau khi đọc kết quả lần đầu ta tháo đầu ống rời khỏi kim để vài giọt máu chảy ra, lúc ấy áp kế không thông với tĩnh mạch nữa nên kim của áp kế chỉ số không, ta lại lắp ống vào đốc kim, nếu áp kế lại chỉ kết quả đúng như lần đầu là đúng. Áp lực tĩnh mạch tính bằng centimet nước. Bình thường ở tay 8-14cm nước, ở chân 10-20cm nước.
Người ta còn đo bằng áp kế có cột nước, áp kế này nối với một ống cao su ở đầu lắp kim để chọc vào tĩnh mạch, khi kim đã đưa vào tĩnh mạch, do áp lực tĩnh mạch tác dụng làm cho cột nước thông với kim dâng lên cao, ta đọc kết quả bằng chiều cao cột nước đó.
Nghiệm pháp ấn gan: khi đo huyết áp tĩnh mạch xong ta để nguyên kim trong tĩnh mạch và dùng gan bàn tay ấn đều và liên tục lên vùng gan. Ở người bình thường khi ấn như vậy, áp lực máu tĩnh mạch xuống một ít rồi trở lại bình thường khi ta nhấc tay lên.
Ởngười suy tim, khi ấn gan, huyết áp tĩnh mạch tăng lên, sau đó trở lại dần trị số ban đầu khi bỏ tay ra, nhưng trở về rất chậm, tim càng suy trở về càng chậm. Sở dĩ có hiện tượng này vì khi ấn gan máu trở về nhĩ phải tăng lên nhưng tâm thất phải đã suy không đủ sức đẩy hết lượng máu thêm ấy cho nên máu ứ ở nhĩ phải làm tăng áp lực ở đây và tiếp đó làm tăng áp lực trong các tĩnh mạch chủ và huyết áp tĩnh mạch ngoại vi.
Trong khi ấn gan, chúng ta còn khảo sát phản xạ gan- tĩnh mạch cảnh: ở người bình thường khi ấn gan làm tĩnh mạch cảnh nổi lên nhưng trở lại bình thường ngay dù ta tiếp tục ấn gan lâu (vì thất phải đẩy máu đi nhanh). Trái lại ở người suy tim, khi ấn gan, tĩnh mạch cảnh sẽ nổi rất to và nếu càng giữ ấn gan lâu, tĩnh mạch cảnh càng nổi hơn, sau khi bỏ tay ấn gan, tĩnh mạch cảnh xẹp xuống dần lâu hơn, sau khi bỏ tay ấn gan, tĩnh mạch cảnh xẹp xuống dần nhưng lâu mới trở lại mức bình thường.
Đây là những biện pháp đơn giản để phát hiện tình trạng thểu năng của cơ tim trong giai đoạn chưa tăng huyết áp tĩnh mạch.
KHÁM TĨNH MẠCH BẰNG DỤNG CỤ
Chụp tĩnh mạch sau khi bơm thuốc cản quang: Dùng chất cản quang có iod tiêm vào tĩnh mạch rồi chụp. Phương pháp này cho biết sự phân bố các tĩnh mạch ở lớp nông cũng như lớp sâu, phát hiện được những tật bất thường bẩm sinh hoặc hoặc hậu phát của hệ tĩnh mạch, phát hiện chính xác những chỗ tắc của tĩnh mạch.
Tĩnh mạch đồ: Người ta dùng một máy ghi thật nhậy có thể ghi được tĩnh mạch đồ.