Các phương pháp chụp X quang sọ não
Chụp sọ não tư thế thẳng, nghiêng thông thường
Chụp sọ não tư thế thẳng nghiêng thụng thýờng cho phép đánh giá các thay đổi bệnh lý sau đây:
Tổn thương xương sọ do chấn thương (vỡ, khuyết xương sọ) hoặc do bệnh lý (tiờu xương, dày đậm xương sọ).
Xác định vị trí của các mảnh kim khí trong hay ngoài hộp sọ.
Thay đổi hình thể hộp sọ do dị tật (hẹp sọ, não úng thủy); thay đổi hình thể, kích thước tuyến yên.
Cho biết những dấu hiệu gián tiếp của hội chứng tăng áp lực sọ não.
Các phương pháp chụp X quang đặc biệt của sọ, mặt
Chụp xoang hàm tư thế Blondeau.
Chụp xương đá tư thế Stenvers.
Chụp tai xoang chũm tư thế Schuller.
Chụp nền sọ tư thế Hirtz.
Chụp động mạch não: có thể bằng phương pháp đưa thuốc cản quang vào động mạch não qua đường chọc kim trực tiếp vào động mạch cảnh gốc hoặc gián tiếp qua ống thông được đưa lên từ động mạch bẹn theo phương pháp Seldinger.
Chụp cắt lớp vi tính (CT.Scanner) và tạo ảnh bằng cộng hưởng từ (MRI) là hai phương pháp có nhiều ưu thế nhất hiện nay trong việc hiện hình mô não, hệ thống não thất. Nhờ vậy có thể cho biết những dấu hiệu trực tiếp của các khối u não ỏp xe não, các ổ xuất huyết trong não, dưới màng cứng, ngoài màng cứng, cũng như các ổ nhồi máu não…
Giải phẫu X quang sọ não
Vòm sọ
Được cấu tạo bởi xương dẹt, có hai lớp xương đặc, mỏng tạo nên bản trong và bản ngoài hộp sọ, ở giữa là lớp xốp có chứa các tĩnh mạch Diploiques.
Kích thước hộp sọ được xác định theo công thức Retzius:
Chiều rộng của hộp sọ
I = ————————————————————————————————— — x 10
Chiều dài của hộp sọ
Chiều rộng tính từ bờ trước lỗ chẩm tới chỗ cao nhất của xương đỉnh.
Chiều dài tính từ bờ trước xương chẩm đến bờ sau xương trán.
Sọ bình thường có trị số I từ 70 – 80.
Sọ dài (dolichocephaly) có trị số I < 70, do dính sớm khớp dọc giữa (Sutura sagitalis): sọ có dạng hình thuyền.
Sọ hình tháp (turricephaly) có trị số I > 80, do dính sớm khớp dọc giữa và khớp trán đỉnh (sutura coronalis).
Các đường khớp của xương sọ
Đường khớp của xương sọ là chỗ tiếp nối giữa các xương đỉnh, xương trán, xương chẩm, xương thái dương, xương đá tạo nên các đường khớp: trán – đỉnh, đỉnh -chẩm, thái dương – đỉnh, thái dương – đá…
Ở trẻ nhỏ các đường khớp này còn là khe rộng, ở người trưởng thành nó có dạng răng cưa, ở người già thường bị vôi hoá. Nếu các đường khớp bị dính quá sớm sẽ gây hẹp sọ, ðiển hình như trong hội chứng Crouzon (đường khớp sọ liền sớm, giảm sản xương hàm trên và não úng thủy).
Vết ấn điểm chỉ
Ở người bình thường, vết ẩn điểm chỉ bắt đầu thấy ở tuổi thứ 8, rõ nhất vào tuổi 20 – 25, sau đó sẽ kém rõ dần ở các tuổi cao hơn. Trên phim chụp X quang sọ não thẳng và nghiêng, vết ấn điểm chỉ thường thấy rõ ở vùng thái dương. Bản chất của vết ấn điểm chỉ chính là các vết ấn của các cuộn não lên bản trong của xương sọ trong quá trình phát triển của não.
Các đường mạch máu
Trên phim chụp sọ não thông thường, ở vòm sọ có thể thấy những đường sáng chạy mềm mại, phân nhánh kiểu rễ cây của các mạch máu:
Động mạch màng não giữa: là ấn lõm bản trong xương sọ, tạo lên một đường sáng chạy từ cánh nhỏ xương bướm phân nhánh lên trên và ra sau, trông như một đường rạn xương.
Tĩnh mạch Diploe: thường bị giãn ở người già. Phim chụp X quang sọ não bình diện nghiêng thấy rõ những đường sáng ngoằn ngoèo từ trước ra sau và thường ở vùng đỉnh, trên bình diện thẳng cho thấy những nốt sáng tròn toả ra dạng hình sao.
Nền sọ
Nền sọ có 3 tầng:
Tầng trước: đi từ xoang trán đến mấu yên trước, liên quan chủ yếu của tầng trước là trần hốc mắt (thùy trán của bán cầu đại não).
Tầng giữa: từ mấu yên trước đến mảnh vuông, ở đây có hố yên, dưới hố yên là xoang bướm (thùy thái dương của bán cầu đại não).
Tầng sau: từ mảnh vuông tới mặt trước xương chẩm, có xương đá, các thành phần của tai trong, xoang chũm và hố sọ sao (thuỳ chẩm của bán cầu đại não).
Hố yên
Hố yên thấy rõ trên phim chụp X quang sọ não ở bình diện nghiêng ở bình diện dọc giữa song song với mặt phim. Hố yên có đặc điểm: kích thước trung bình từ 80 – 120mm2, tuyến yên nằm trong hố yên có thể tích bằng 50 – 70% thể tích hố yên, mấu yên trước và mấu yên sau có thể dính nhau do hiện tượng đóng vôi dây chằng liên mấu yên. Theo Garstens, dấu hiệu này hay gặp ở những người có rối loạn thần kinh thực vật.
1. Vòm sọ (bản trong và bản ngoài) 11. Lưng yên
2. Hốc mắt 12. Mấu yên trước
3. Trần hốc mắt 13. Hố yên
4. Cánh bướm lớn 14. Xoang bướm
5. Khe bướm 15. Xoang trán
6. Bờ trên xương đá 16. Khớp dọc giữa
7. Khớp đỉnh – chẩm 17. Xoang chũm
8. Khớp trán – đỉnh 18. Tĩnh mạch Diploe
9. Ụ chẩm trong
10. Rãnh động mạch não giữa
1. Mấu yên trước 4. Xoang bướm
2. Lưng yên 5. Vách xương bướm
3. Đáy hố yên 6. Dây chằng mỏm yên – đá
Những biến đổi bệnh lý ở sọ não trên phim chụp X quang thường
Chấn thương sọ não
Đường vỡ rạn xương sọ: thường cùng bên, có khi đối diện với phía lực chấn thương. Đường rạn là đường sáng bờ sắc nét, có khi gập góc đột ngột, cần phân biệt với đường sáng của mạch máu, nhất là động mạch màng não giữa. Đường đi của mạch máu thường tương ứng với vị trí giải phẫu, bờ không sắc nét, chia nhánh đều đặn thành các nhánh nhỏ dần như rễ cây.
Vỡ lún xương sọ: thường do lực chấn thương mạnh, trực tiếp lên một diện hẹp của hộp sọ, làm một mảnh xương lún sâu vào trong sọ. Hình ảnh X quang chụp ở bình diện nghiêng, mảnh lún gây gián đoạn một phần của bản trong và bản ngoài, bờ xương tại chỗ lún sâu xuống so với đường cong vồng của vòm sọ; trên bình diện thẳng mảnh lún tạo nên một hình đa giác có viền sáng xung quanh.
Đường vỡ tách khớp: lực chấn thương có khi gây ra rạn xương dọc theo các đường khớp, làm tách rộng khe khớp.
Các dấu hiệu gián tiếp của vỡ xương sọ: trên phim X quang có thể không thấy đường vỡ xương sọ, mà có khi lại thấy các dấu hiệu gián tiếp như khí xuất hiện khác thường ở mô não (thường do vỡ các xoang).
Hội chứng tăng áp lực sọ não
Hình ảnh X quang trong hội chứng tăng áp lực sọ não cho thấy 3 dấu hiệu sau:
Vết ấn điểm chỉ: các vết ấn điểm chỉ xuất hiện tăng lên về số lượng và chiều sâu, tuy nhiên không thể chỉ dựa vào vết ấn điểm chỉ để xác định hội chứng tăng áp lực sọ não vì nó rất thay đổi trên từng cá thể. Cần lưu ý vết ấn điểm chỉ tồn tại sinh lý ở người trẻ (thường dưới 25 tuổi).
Giãn đường khớp của hộp sọ: cũng như dấu ấn điểm chỉ, dấu hiệu giãn rộng các đường khớp trong hội chứng tăng áp lực sọ não xuất hiện sớm và dễ nhận biết ở những người còn trẻ khi các đường khớp chưa bị cốt hoá.
Mòn mấu yên: có thể nói có rất nhiều loại u ở não, ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đè ép vào hố yên; đó là những u màng não cạnh đường giữa hoặc ở chỗ vồng của bán cầu đại não, u màng não trên hố yên, u hạch của tuyến yên, u sọ hầu…
Ba dấu hiệu trên phối hợp với nhau trên cùng một người bệnh sẽ giúp cho một chẩn đoán bằng chụp X quang có khối phát triển trong não với độ tin cậy cao. Tuy nhiên, để xác định chính xác cần chụp cắt lớp vi tính hoặc cộng hưởng từ.
U tuyến yên
Những u trong hố yên làm rộng hố yên, đẩy nền hố yên xuống dưới, lưng yên ra sau, mấu yên trước lên trên. Những u ở ngoài hố yên chèn trên xuống, gây phá hủy lưng yên, mấu yên trước nhọn ra và bị đè xuống dưới về phía hố yên.
Có 3 loại u ở hố yên tạo nên những hình ảnh khác nhau trên phim chụp X quang:
U tuyến yên loại tế bào ưa màu (adenomes chromophiles) đẩy hố yên sâu xuống dưới, lưng yên nguyên vẹn nên lối vào hố yên không thay đổi.
U tuyến yên loại tế bào không bắt màu (adenomes chromophobes) làm rộng hố yên theo chiều trước sau, lưng yên bị phá huỷ nên lối vào hố yên rộng ra (hố yên có dạng hình thuyền).
U tuyến yên loại tế bào ái kiềm (adenomes basophiles): không làm biến đổi hình ảnh X quang của hố yên.
Hình ảnh X quang một số bệnh lý gây khuyết xương sọ và tiêu xương sọ
Khuyết xương sọ sau vết thương thấu não hoặc sau phẫu thuật: ổ khuyết xương sọ thường tròn, có kích thước lớn (từ 3 – 5cm đường kính); đặc biệt là ổ khuyết có giới hạn rất rõ, bờ nhẵn do bị xơ hoá.
Tiêu xương trong bệnh Kahler (multiple myeloma): gây tiêu xương sọ thành nhiều ổ tròn nhỏ (đường kính 1 – 2mm) rải rác khắp xương sọ, trên hình ảnh X quang sọ có hình ảnh sẹo “bắn bia”. Cùng với những ổ tiêu xương ở sọ, còn thấy các ổ tiêu xương tương tự ở các xương xốp trong cơ thể (xương chậu, xương sườn, đầu các xương dài…).
Tiêu xương sọ trong bệnh Hand – Schueller – Christian: bệnh căn là do rối loạn chuyển hoá cholesterol gây thoái hoá hạt của tế bào Xanthin. Bệnh thường gặp ở trẻ nhỏ 3 – 5 tuổi; lâm sàng có đái nhạt, lồi mắt và tiêu xương sọ thành những mảng lớn như “hình bản đồ” trên phim chụp X quang; bệnh có thể tự khỏi khi trẻ trưởng thành.
Ngoài ra tiêu xương sọ còn có thể gặp trong cốt tủy viêm, lao xương sọ, di bào ung thư xương…