Mạch và chủ chứng của bài Đại hãm hung thang

Mạch và chủ chứng của bài Đại hãm hung thang
Mạch và chủ chứng của bài Đại hãm hung thang
Điều 138. Bệnh thái dương mạch phù mà động sác, phù là phong, sác là nhiệt; động là đau sác là hư, đau đầu phát sốt, hơi đổ mồ hôi trộm, mà lại sợ lanh là biêu chưa giải. Thầy thuốc lại cho hạ, mạch động sác biến thành mạch trì, trong hoành cách mô đau không cho sờ. Trong dạ dày trống không, khách khí động ở hoành cách mô, hơi thở đoản, buồn phiền vật uã, trong tàm ảo não, dương khí hãm vào trong, dưới tăm nhân đó mà rắn nên thành chứng kết hung, dùng Đại hãm hung thang làm chủ. Nếu không có kết hung, chỉ đỏ mô hôi đầu, các chỗ khác không đổ mô hôi, đến cổ thì hết, tiểu tiện không lợi, mình tất phát vàng.

Tóm tắt:

Biện về chứng thái dương vì hạ nhầm mà thành chứng kết hung và bệnh biến phát vàng.

Mạch và chủ chứng của bài Đại hãm hung thang
Mạch và chủ chứng của bài Đại hãm hung thang

Thích nghĩa:

Bệnh thái dương biểu chứng chưa giải mà cho hạ, biểu tà hãm vào trong gây thành hai thứ bệnh biến: một là chứng Đại hãm hung thang, hai là chứng phát vàng. Bệnh thái dương mạch phù mà động, sác (phù là mạch của bệnh thái dương, chủ biểu; động là âm dương va chạm nhau, chủ đau; sác là dương thịnh chủ nhiệt). Mạch động sác cùng thấy với mạch phù là phong tà ở biểu bên trong kliông có thực tà cho nên nói:M Mạch sác là hư”. Đau đầu phát sôt là biểu chứng, hơi đổ mồ hôi trộm là tà đã nhập vào lý, tà nhập vào lý đáng lý không sợ lạnh mà lại sợ lạnh là biểu chứng vẫn chưa giải. Từ câu: uThầy thuốc lại cho hạ ” về sau có thể phân làm hai đoạn để xem. Nếu biểu chứng chưa giải inà thầy thuốc lại cho hạ, mạch động sác biến thành mạch trì.

Mạch và chủ chứng của bài Đại hãm hung thang
Mạch và chủ chứng của bài Đại hãm hung thang

Mạch trì là lý hư, biểu tà thừa khí hãm vào trong làm cho chính khí về tà giao tranh nhau, chống nhau ỏ vùng hoành cách mô, cho nên trong hoành cách mô đau khồng cho sờ. Sau khi hạ trong dạ dày trống không, khách khí thừa hư mà nhiễu động trong hoành cách mô, hoành cách mô bị tà chiêm đóng, thăng giáng bị ngán trở, cho nên hơi thở đoản, buồn phiền vật vã, trong tâm ảo não. Đấy là dấu hiệu dương tà hãm vào trong, dương nhiệt cùng kết với thuỷ nhiệt, dưới tâm nhân đó xuất hiện chứng đầy rắn mà đau, vì thế mà thành chứng kết hung, cho nên phải dùng Đại hãm hung thang để hạ nhiệt kết đi, đấy là đoạn thứ nhất.

Mạch và chủ chứng của bài Đại hãm hung thang
Mạch và chủ chứng của bài Đại hãm hung thang

Nếu sau khi hạ mà không có chứng kết hung, chỉ thấy đổ mồ hôi đầu đên cổ thì hết các chỗ khác không có mồ hôi, tiểu tiện không lợi, đấy là sau khi hạ nhiệt nhập vào trong dạ dày cùng kết tụ với thấp. Thấp và nhiệt bốc lên trên thời chỉ đổ mồ hôi đầu, thấp nhiệt không bốc ra ngoài được thòi mình không có mồ hôi, thấp nhiệt không tiết xuôĩig dưới nên tiểu tiện không lợi. Đấy là vì hạ nhầm làm tổn thương tỳ vị, thấp nhiệt không thể vận hoá được, uất bốc ở trong mình tất vàng, đấy là đoạn thứ hai.

Mạch và chủ chứng của bài Đại hãm hung thang
Mạch và chủ chứng của bài Đại hãm hung thang

Nhận xét:

Chứng này tuy chưa đề ra phương thuốc chữa, nhưng ý nghĩa thanh nhiệt lợi thấp thì đã có ở trong ấy rồi.

Mạch và chủ chứng của bài Đại hãm hung thang
Mạch và chủ chứng của bài Đại hãm hung thang

BÌNH LUẬN

Nhập nội dung bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.