Căn cứ vào tiêu chuẩn chẩn đoán I của bệnh ruột dạ dày mang tính chức năng, thì tiêu chuẩn chẩn đoán nóng tim mang tính chức năng cũng phải phù hợp với các điều kiện dưới:

a – Sau ngực nóng ran, thấy khó chịu, hay đau.

b – Không có chứng cứ gây ra triệu chứng trào ngược axit thực quản dạ dày.

c – Không làm trở ngại đông lực thực quản, kèm theo tổ chức bệnh lý khác thường.

Trước khi chẩn đoán, triệu chứng xuất hiện ít nhất là 6 tháng. Gần 3 tháng triệu chứng phù hợp với các tiêu chuẩn trên.bệnh trào ngược thực quản dạ dày

Căn cứ triệu chứng nóng tim để xem có liên quan đến trào ngược axit không. Nóng tim mang tính chức năng chia làm hai loại:

a – Mối liên quan của triệu chứng nóng tim và trào ngược tương đôl tốt. Cái đó chỉ chiếm số ít. Suy ra biết những người bị bệnh nhạy cảm với trào ngược mang tính sinh lý. Do tình hình trào ngược thực quản dạ dày hàng ngày của người bệnh không như nhau, kỹ thuật đo pH có thể khiến chẩn đoán sót một số trào ngược mang tính bệnh lý nào đó.

b – Triệu chứng nóng tim không liên quan đến trào ngược. Cái này chiếm đa số của nóng tim mang tính chức năng. Nguyên nhân bệnh của nó không rõ. Có lẽ có liên quan đến nhân tố mở rộng máy móc của thực quản khi nuốt hôi, với trào ngược muối mật và men tụy dốc vào thực quản quá nhiều mà gây ra, nên cần phải nghiên cứu thêm.

Cần phải phân biệt nóng tim mang tính chức năng với các bệnh tật dưới:

Bệnh trào ngược thực quản, dạ dày (Gerd): Nóng tim là triệu chứng thường thấy nhất của Gerd.

Kiểm tra soi dạ dày và đo pH thực quản 24 giờ để phân biệt. Người bị bệnh Gerd nếu đoạn dưới của thực quản thấy lấm chấm đỏ, thấm ra, niêm mạc trở nên giòn, rữa nát, loét, hẹp v.v… thì sẽ bị bệnh như tế bào màng viêm bị thấm ướt, rữa nát, hoại tử, barrette thực quản v.v… và còn được gọi là viêm thực quản mang tính trào ngược. Kiểm tra đo pH thực quản trong 24 tiếng thấy thời gian pH < 4 trên 4% (hoặc quá 1 tiếng).

  1. Chứng giãn chùng ở môn tâm bị mất: Triệu chứng là nuốt khó. Có số ít người có triệu chứng nóng tim, đau ngực v.v… Kiểm tra uống barie chụp X- quang thấy đoạn dưới của thực quản mở rộng, cơ trơn biến thành dạng mỏ chim. Đo áp lực thực quản thấy áp lực của cơ co bóp thực quản dưới (les) tăng. Khi nuốt les không bị chùng.
  2. Tê liệt khắp thực quản: Là một loại bệnh do động lực thực quản bị trở ngại, nhu động thực quản bị nén khác thường. Biểu hiện chính của nó là nuốt khó. Có số ít bệnh nhân có triệu chứng nóng tim. Kiểm tra X-quang uống barie thấy sóng nhu động đoạn dưới thực quản yếu đi, hoặc đoạn dưới thực quản bị co thắt mang tính tê liệt nặng. Đo áp lực thực quản cho thấy đoạn dưới thực quản mở to quá cỡ, sóng nhu động khác thường, còn chức năng cơ bản của les vẫn bình thường.
  3. Đau co thắt tim động mạch vành. Triệu chứng chính của nó là đau co thắt tim. Nhưng một số bệnh nhân đau co thắt tim lại tỏ ra nóng ran, giống với bệnh nóng tim. Phải kiểm tra điện tâm đồ, và thí nghiệm vận động để chẩn đoán chính xác cho bệnh tình khỏi ảnh hưởng sai lầm.
Bài trướcĐau ngực không phải do nguồn tim có những biểu hiện lâm sàng nào?
Bài tiếp theoNhững bệnh nhân nào phải kiểm tra Vi khuẩn HP?

BÌNH LUẬN

Nhập nội dung bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.