Bệnh Cúm

Bệnh cúm là một bệnh truyền nhiễm cấp tính đường hô hấp do virus influenza gây nên. Tuy trong đa số trường hợp, bệnh chỉ khu trú ở đường hô hấp trên với tiến triển lành tính, nhưng có thể gây tử vong khi có biến chứng. Chúng thường gây nên những vụ dịch, thậm chí đại dịch, do đó số người tử vong vì cúm rất đáng kể.

Tác nhân gây bệnhBệnh Cúm

Virus cúm có tên khoa học là virus influenza, thuộc họ Orthomyxoviridae, được phân biệt thành ba typ A,B,C dựa trên sự khác nhau của các kháng nguyên. Cấu trúc của virus cúm gồm hai phần :

Phần lõi có chứa một sợi ARN mang những thông tin di truyền.

Phần vỏ có 3 kháng nguyên :

Kháng nguyên S (Soluble): là kháng nguyên hoà tan.

Kháng nguyên H (Hemaglutinin): giúp virus bám dính vào tế bào cảm thụ

Kháng nguyên N (Neuraminidase): giúp giải phóng virus thế hệ sau ra khỏi tế bào.

Hai kháng nguyên H và N của typ thường có những thay đổi. Sự thay đổi kháng nguyên có thể xảy ra từ từ, tạo nên những vụ dịch nhỏ hay có thể đột ngột, tạo nên những đại dịch. Virus B và C ít thay đổi kháng nguyên và chỉ thay đổi chậm nên hiếm khi gây dịch lớn.

Sự ngưng kết hồng cầu xảy ra khi virus tiếp xúc với bề mặt của hồng cầu. Người ta dựa vào hiện tượng này để nghiên cứu sự nhân đôi của virus và đo nồng độ kháng thể.

Dịch tễ học

Bệnh rất dễ lây và lây rất nhanh trong cộng đồng. Trong các vụ dịch, có đến 30-60% dân cư trong vùng có dịch bị mắc bệnh. Các vụ dịch xuất hiện không theo chu kỳ rõ ràng.

Đường lây : chủ yếu là đường hô hấp. Các giọt nước bọt rất nhỏ của người bệnh dễ dàng lọt vào đường hô hấp của người tiếp xúc và gây bệnh nếu người bị nhiễm không có miễn dịch tương ứng. Người bệnh có thể lây cho người khác từ 6 ngày trước khi có triệu chứng cho dến 1 -2 tuần sau khởi bệnh.

Sự thay đổi kháng nguyên (nhất là virus typ A) làm giảm khả năng miễn dịch của những người đã từng bị mắc cúm trước đó, do đó làm tăng tỷ lệ mắc bệnh trong cộng đồng, gây nên những vụ dịch, thậm chí đại dịch nếu sự thay đổi kháng nguyên nhiều và đột ngột.

Bệnh thường xảy ra vào mùa lạnh, từ cuối thu đến mùa xuân năm sau. Dịch đạt đến cao điểm 1-2 tuần sau khi khởi đầu và kéo dài khoảng 1 tháng.

Tử vong thường xảy ra ở những người có nguy cơ bị biến chứng cao. Đó là những người già yếu (trên 65 tuổi), phụ nữ có thai, có các bệnh về chuyển hoá , có bệnh tim phổi mạn tính, suy thận mạn, những người suy giảm miễn dịch..

Sinh lý bệnh

Sau khi vào cơ thể theo đường hô hấp, virus bám dính rồi thâm nhập vào tế bào biểu mô của đường hô hấp trên và nhân lên ở đó. Trong quá trình nhân lên và phát triển của vi-rút bên trong tế bào, vi-rút làm rối loạn chuyển hoá tế bào và phá vỡ tế bào lành rồ tiếp tục phá vỡ các tế bào khác.

Quá trình này xảy ra khá nhanh nên chỉ trong một thời gian ngắn, virus có thể lan toàn bộ niêm mạc đường hô hấp trên, có khi lan đến tận phế nang. Các tế bào biểu mô sẽ sung huyết, phù nê,ö hoại tử và bong ra. Sự bong ra của niêm mạc đường hô hấp trùng với sự xuất hiện sốt và sổ mũi. Tuy nhiên sau khi khỏi bệnh, chúng thường được thay thế bởi các tế bào biểu mô mới từ lớp tế bào mầm bên dưới.

Lâm sàngBệnh Cúm

Thể điển hình

Thời gian ủ bệnh

Kéo dài 1-3 ngày, trung bình 48 giờ. Bệnh khởi phát đột ngột với sốt, ớn lạnh, nhức đầu, sổ mũi, đau cơ, mệt mỏi.

Thời kỳ khởi phát

Thường đột ngột, sốt cao 39-400C, rét run, nhức đầu, buồn nôn, đau mỏi toàn thân.

Thời kỳ toàn phát: có 3 hội chứng:

Hội chứng nhiễm trùng:

Sốt : đột ngột và tăng lên nhanh chóng trong những ngày đầu tiên, có khi lên đến 40 độ C kèm ớn lạnhü. Sau đó giảm dần và trở lại bình thường trong vòng 1 tuần.

Mệt mỏi toàn thân, chán ăn, môi khô, lưỡi bẩn.

Hội chứng đau lan toả:

Nhức đầu: quanh hốc mắt, vùng trán hay thái dương. Có trường hợp ở vùng chẩm. Nhức đầu thường giảm dần từ ngày thứ ba đến ngày thứ năm, gần tương ứng với cơn sốt.

Đau cơ khớp : đau toàn thân, nhưng rõ nhất là ở cẳng chân và vùng thắt lưng.

Dấu hiệu viêm long đường hô hấp trên:

Thường có sổ mũi, ho khan, đôi khi có đàm, rát họng.

Khám thực thể : có khi không phát hiện gì. Nhiễm virus typ B có thể gặp các triệu chứng ở mắt: đau mắt, sợ ánh sáng, viêm kết mạc.

Tiến triển : bệnh thường tự hồi phục trong vòng 4-7 ngày khi không có biến chứng. Tuy nhiên chán ăn, ho và mệt mỏi còn kéo dài đến 3 tuần sau, nhất là ở người già.

Cúm ác tính

Có biểu hiện của hội chứng suy hô hấp cấp do virus cúm gây ra. Thường gặp ở những người suy hô hấp, có bệnh van hai lá, phụ nữ có thai, già yếu hay có suy giảm miễn dịch.

Lâm sàng: thở nhanh, tím đầu chi, phổi có ran nổ hai bên. Có thể có dấu suy tim phải và rối loạn ý thức. Hiếm hơn có thể viêm cơ tim, viêm màng ngoài tim, suy thận, suy gan..

X quang phổi : mờ lan toả ở hai phổi. Bệnh nhân thường tử vong do thiếu Oxy nặng.

Biến chứng Bệnh Cúm

Bội nhiễm phế quản-phổi do vi khuẩn

Đây là biến chứng thường gặp nhất của cúm.

Tác nhân gây bệnh thường là Haemophilus influenza, phế cầu, liên cầu, tụ cầu vàng.., thường gặp ở người già và người bị suy hô hấp mạn tính.

Triệu chứng báo hiệu thường là sốt tăng trở lại sau khi đã giảm xuống 1-2 ngày. Bệnh nhân ho nhiều kèm khạc đàm, đau ngực. Nghe phổi có nhiều ran nổ, có thể có hội chứng đặc phổi hoặc viêm phế quản.

Có thể dùng kháng sinh phòng bội nhiễm ở những người có nguy cơ.

Bội nhiễm Tai-Mũi-Họng

Hiếm gặp hơn, chủ yếu ở trẻ em, bao gồm:

Viêm tai giữa

Viêm xoang

Viêm thanh quản

Biến chứng khác

Rất hiếm gặp, gồm có :

Viêm cơ tim, viêm màng ngoài tim

Viêm màng não lymphô có hoặc không kèm dấu hiệu viêm não

Sẩy thai ở phụ nữ có thai

Hội chứng Reye’s : phù não, hạ đường huyết, tổn thương tế bào gan và thận.

Thường chỉ gặp ở trẻ dưới 15 tuổi, có dùng Aspirin để hạ sốt.

Hội chứng Guillain – Barre

Chẩn đoánBệnh Cúm

Chẩn đoán cúm thường dựa vào :

Lâm sàng

Các triệu chứng nhiễm virus nói chung : sốt cao đột ngột, mệt mỏi, chán ăn..

Hội chứng đau

Dấu hiệu viêm long đường hô hấp trên.

Yếu tố dịch tễ : Có nhiều người cùng mắc bệnh trong vùng bệnh nhân đang sống.

Chẩn đoán xác định

Phân lập virus : có thể phân lập virus trong dịch xuất tiết mũi họng hay khí quản, cấy trên tổ chức phôi gà.

Chẩn đoán huyết thanh: phương pháp ức chế ngưng kết hồng cầu (Hemagglutination inhibition) hoặc cố định bổ thể (Complement fixation). Cần lấy máu 2 lần, cách nhau 7-10 ngày. Kết quả (+) khi hiệu giá đạt 1/1280 hoặc kháng thể lần 2 tăng gấp 4 lần so với lần đầu.

Các phương tiện chẩn đoán xác định bằng phương pháp huyết thanh học hay phân lập virus rất đắt và không thực tế. Chúng thường chỉ dành cho các nghiên cứu dịch tễ học, phục vụ công tác dự báo và làm vaccine.

Chẩn đoán biến chứng

Dựa vào các triệu chứng lâm sàng và các xét nghiệm liên quan.

Chẩn Đoán phân biệt

Trên lâm sàng, rất khó phân biệt với các bệnh do các loại virus khác nhưvirus parainfluenza, rhinovirus, adenovirus.. gây ra. Chủ yếu dựa vào yếu tố dịch tễ.

Phân biệt với viêm phổi do Mycoplasma, Chlamydia, viêm họng do các vi khuẩn..Các bệnh này thường không tự giới hạn và đáp ứng với kháng sinh thích hợp.

Điều trịBệnh Cúm

Nguyên tắc

Không có điều trị đặc hiệu. Chủ yếu điều trị triệu chứng và các biến chứng.

Nâng cao thể trạng bệnh nhân .

Điều trị cụ thể

Nghỉ ngơi, ăn uống và bù nước đủ cho bệnh nhân. Chỉ hoạt động trở lại dần dần khi hồi phục, nhất là những trường hợp nặng.

Nếu bệnh nhân sốt cao : hạ nhiệt bằng Paracetamol 500 mg x 3-4 lần/ ngày.

Không dùng Aspirin hay các dẫn xuất có Salicylate khác, nhất là cho trẻ em.

Vitamin C, 1 -2 g/ ngày.

Các thuốc điều trị triệu chứng (kháng histamin, long đàm, giảm ho..): chỉ dùng khi cần thiết. Nếu có ho khan và đau sau xương ức có thể dùng Codeine, 16 – 64 mg mỗi 4 -6 giờ.

Đối với các bệnh nhân có nguy cơ cao ( trẻ sơ sinh, người già, người có suy hô hấp mạn tính, suy tim.. ) có thể cho kháng sinh phòng bội nhiễm.

Thuốc chống virus đặc hiệu : Ribavirin, Amantadine và Rimantadine chỉ có hiệu lực nhưng không cao lắm với virus cúm typ A và phải dùng rất sớm ngay sau khi nhiễm virus .

Điều trị các biến chứng : Kháng sinh thích hợp nếu có bội nhiễm vi khuẩn ( chủ yếu để kháng lại Tụ cầu, Phế cầu và H. influenza ). Bảo đảm hô hấp. Trường hợp hội chứng Reye’s: truyền Glucose, chống phù não.

Điều trị cúm ác tính:

Theo dõi và điều trị tại phòng Hồi sức cấp cứu.

Hồi sức hô hấp và các biện pháp khác : thở Oxy, thở máy, cân bằng nước- điện giải, kháng sinh.

Phòng bệnh

Tuyên truyền rộng rãi kiến thức về cúm cho nhân dân. Đặc biệt nhấn mạnh đến khả năng lây lan mạnh và nhanh, chú ý các đối tượng có nguy cơ biến chứng cao khi mắc cúm.

Cách ly bệnh nhân nghi cúm. Không cho những người có bệnh tim mạch mạn tính, già yếu..tiếp xúc với bệnh nhân cúm. Nếu có tiếp xúc, có thể dự phòng bằng Amantadine ( hay Rimantadine ) 200 mg/kg/ngày x 3-7 ngày. Khả năng bảo vệ khoảng 70% đôïi với virus cúm A, nhưng không có hiệu quả đối với virus B. Thuốc kháng virus mới Ribavirin, dùng đường uống hoặc khí dung, tỏ ra có hiệu quả tốt trong dự phòng và điều trị bệnh cúm.

Trên thế giới, người ta thường chủng ngừa vaccine vào đầu mùa thu (trước mùa dịch hàng năm). Vaccine thường được sản xuất dựa trên các virus cúm gây dịch những năm trước, thường có hiệu quả bảo vệ tốt (khoảng 65 – 70%). Thời gian bảo vệ 3 – 6 tháng. Vì bệnh cúm thường tự giới hạn và tỷ lệ tử vong không cao nên vaccine cúm không được đưa vào chương trình tiêm chủng đại trà. Tuy nhiên khi có đột biến của virus thì người đã chủng ngừa vẫn có thể mắc cúm.

Bài trướcBệnh thoát vị đĩa đệm cột sống
Bài tiếp theoBệnh Gan nhiễm mỡ

BÌNH LUẬN

Nhập nội dung bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.