Sinh hoạt tình dục không đúng nhất định gây ra chứng vô sinh.
Sinh hoạt tình dục không đúng bao gồm phương pháp sinh hoạt tình dục không đúng, tư thế không đúng, thói quen không đúng, và thời điểm không đúng.
Phương pháp không hợp lý là khi dương vật của chồng đi vào âm đạo của vợ gặp khó khăn, hoặc không thể vào trong được. Nguyên nhân có thể do người vợ tinh thần căng thẳng gây ra co giật âm đạo. Điều này là vì cơ thịt bao bọc miệng âm đạo và 1/3 bộ phận ngoài âm đạo sinh ra co giật mạnh, miệng âm đạo bị co nhỏ lại, đến một ngón tay cũng không cho vào sâu được, dương vật to lớn như vậy đương nhiên phải đứng ngoài. Dương vật không thể đi vào âm đạo còn có một số nguyên nhân khác nữa: đó là những dị tật bẩm sinh của nữ giới, như không có âm đạo bẩm sinh hoặc âm đạo không phát triển (âm đạo chỉ dài có 1-4 mm), âm đạo bị kín hoặc hẹp, màng âm đạo, màng trinh kín hoặc quá bền. Nam giới bị bẩm sinh như: niệu đạo bị tổn thương bẩm sinh, dương vật quá lớn, quá nhỏ, dị hình, hai dương vật, dương vật bị cong…, ngoài ra còn bao gồm bao dương vật, bao tinh hoàn, vết thương ngoài dương vật biến dạng, viêm khớp phong thấp nghiêm trọng, khớp hông tê cứng, ngoài ra còn viêm sưng âm đạo, ngoài âm đạo và lở loét, u bướu, ngoại thương… dẫn đến trở ngại cho các cơ quan…, cũng sẽ ảnh hưởng đến quá trình dương vật đi vào âm đạo. về mặt lâm sàng còn có thể thấy có phụ nữ nhiều năm kết hôn nhưng vô sinh, đã kiểm tra, màng trinh vẫn còn hoàn chỉnh, mà miệng niệu đạo lại xuất hiện những biểu hiện giãn nở. Nếu dương vật không thể đi vào âm đạo, vậy thì chồng làm thế nào để tiết tinh dịch vào âm đạo, và người vợ làm thế nào để thụ tinh?
Tư thế không phù hợp là chỉ tư thế hoặc vị trí khi sinh hoạt tình dục chưa phù hợp, cũng có thể khiến cho người vợ vô sinh. Như tư thế đứng, nữ trên, bởi sau khi người chồng xuất tinh, tinh dịch rất mau chóng chảy vào âm đạo, còn nếu tử cung ở phía sau, thì ngoài tư thế giao hợp nằm khiến cho miệng cổ tử cung và tinh dịch dễ tiếp xúc mà dễ có thai, thì các tư thế giao hợp khác đều rất khó thụ thai. Đương nhiên, dù tiến hành giao hợp bằng tư thế nào, chỉ cần sau khi người chồng xuất tinh, lập tức để người vợ nằm thẳng, và đệm mông bằng một cái gối, cố gắng nâng cao mông lên, nằm ngửa khoảng 0,5 – 1 giờ, để cổ tử cung sau khi ngâm trong âm đạo ngụp lặn trong ao tinh dịch, thuận lợi cho tinh trùng đi vào cổ tử cung.
Thói quen không tốt đó là sinh hoạt tình dục trong giai đoạn kinh nguyệt. Ở những vùng nông thôn, miền núi xa xôi, kiến thức về tình dục chưa được phổ cập, người ta đều có thói quen sinh hoạt tình dục trong kỳ kinh nguyệt. Họ cho rằng, thời kỳ kinh nguyệt mà sinh hoạt tình dục có thể nâng cao khả năng có thai. Thực tế, sinh hoạt tình dục trong kỳ kinh nguyệt, kích thích cơ thể sản sinh ra kháng thể kháng tinh trùng, có thể gây vô sinh tính miễn dịch, còn có thể gây nên nhiễm khuẩn, khiến ống dẫn chứng viêm nhiễm, gây tắc ống dẫn trứng và dẫn đến vô sinh.
Một số phụ nữ vì đề phòng nhiễm khuẩn đường niệu đạo, sau khi sinh hoạt tình dục, lập tức dậy đi tiểu tiện. Về vấn đề vệ sinh thì, dường như vô cùng khoa học, nhưng phương pháp “khoa học” này lại không thỏa đáng chút nào. Sau khi rời khỏi giường, đứng dậy, miệng âm đạo sẽ hướng xuống dưới, có thể làm lượng lớn tinh trùng chảy ra ngoài, làm giảm khả năng có thai. Đặc biệt là những phụ nữ khó có thai, thì cơ hội lại càng mỏng manh hơn.
Thời cơ không hợp lý tức là chỉ sinh hoạt tình dục quá nhiều, có thể ảnh hưởng đến chất lượng tinh dịch, còn khi vợ chồng giao hợp quá ít, không có lợi cho tinh trùng gặp gỡ với trứng chín, nên cơ hội thụ thai sẽ ít hơn.
Theo điều tra, người bị vô sinh đã chữa trị ở bệnh viện, khoảng 70% số người do sinh hoạt tình dục quá nhiều, đặc biệt là thời kỳ tân hôn, mỗi ngày giao hợp 1 – 2 lần, liên tục trong 3 tháng. Trong đó có bộ phận phụ nữ vô sinh, phụ nữ không phát dục đã điều trị dứt và vẫn giữ thói quen giao hợp quá nhiều. Chúng ta đều biết, bình thường nam giới xuất tinh 1- 6 ml, trong đó bao gồm tổng số tinh trùng hơn 3.000 vạn con trở nên, 70% tinh trùng có khả năng hoạt động bình thường, nhưng chỉ có 1% – 5% đến được khoang tử cung, sau đó có 1 tinh trùng kết hợp với trứng tạo ra trứng được thụ tinh. Nếu sinh hoạt tình dục quá nhiều, tinh trùng cung không đủ cầu, chất lượng giảm, thì sẽ ảnh hưởng đến thụ tinh. Ngoài ra, tinh trùng là một vật chất kháng nguyên, kích thích liên tục lên đường sinh sản nữ, sẽ làm cho nữ giới không ngừng sản sinh ra kháng thể kháng tinh trùng, khiến tinh trùng có thể phát sinh đông kết hoặc mất đi năng lực hoạt động, trực tiếp ảnh hưởng đến thụ tinh. Như vậy có thể thấy giao hợp quá nhiều thì kết quả sẽ ngược lại.
Sự lựa chọn về thời gian sinh hoạt tình dục là rất quan trọng. Trứng chỉ có khả năng thụ tinh trong vòng 24 tiếng sau khi rụng, sau đó tăng tóc “lão hóa”, không có khả năng thụ tinh nữa. Sau khi thụ tinh, tinh trùng lưu giữ được khả năng thụ tinh trong đường sinh sản phụ nữ khoảng 48 giờ. Do đó, lựa chọn thời gian giao hợp, gieo “hạt mầm” đúng lúc là vô cùng quan trọng, đặc biệt là đối với những cặp vợ chồng năng lực sinh sản không mạnh thì lại càng cần quan tâm hơn.
Lựa chọn tốt thời kỳ trứng rụng để sinh hoạt tình dục có thể tăng cao tỉ lệ thụ thai. Nếu chu kỳ kinh nguyệt là 28 ngày, bắt đầu từ ngày có kinh nguyệt, tính đến ngày thứ 14 là ngày rụng trứng. Nếu chu kỳ kinh nguyệt không đủ 28 ngày, tuổi thọ của trứng là 18 – 30 giờ, nên để cho tinh trùng và trứng trong vòng 24 giờ đó gặp nhau thì mới có cơ hội thụ tinh. Ở trong ống cổ tử cung, tinh trùng có khả năng sống 1- 2 tuần, nhưng khả năng thụ tinh của nó thường không vượt quá 48 giờ. Từ đó suy ra rằng, 2 ngày trước ngày rụng trứng, ngày rụng trứng và sau ngày rụng trứng một ngày, mỗi ngày sinh hoạt tình dục một lần, cơ hội thụ thai sẽ tăng lên.
Phương pháp suy đoán thời kỳ rụng trứng đó là: (1) dựa vào nhiệt độ cơ thể: nếu đồ thị thân nhiệt song song, tức ngày hôm đó trước khi nhiệt độ tăng lên, đó là ngày trứng rụng. (2) quan sát sự biến đổi của dịch nhầy tử cung: khí hư xuất hiện nhiều và rất loãng, là thời kỳ bôi trơn, quan sát chất nội tiết thấy ngày mà dịch nhầy này màu trứng gà, trong suốt, đàn hồi cao, độ dài tốt., thì ngày hôm đó có khả năng trứng rụng. (3) Hoóc môn LH đạt đến mức cao nhất trong 24 giờ trước kỳ rụng trứng, do đó độ đậm đặc LH tăng lên, là tiêu chí tốt nhất để dự đoán kỳ trứng rụng. (4) Kiểm tra в vượt quá bọt trứng: người dự đoán vô sinh bọt trứng to hay nhỏ, độ dày màng trong, căn cứ vào thông tin này để lựa chọn thời gian giao hợp phù hợp. Ưu điểm của phương pháp này là tương đối chuẩn xác, 4 phương án trên có thể lựa chọn 1-2 loại, như có thể sử dụng tổng hợp, hiệu quả rất tốt.
Có nghiên cứu cho rằng, khi sinh hoạt tình dục, người vợ xuất hiện cao trào tình dục sẽ dễ có thai, thụ thai. Lý do có 3 phương diện: (1) khi cao trào tình dục, trong tử cung xuất hiện áp lực chính, sau cao trào tình dục vội vàng đi xuống hoặc về gấp, tinh trùng dễ theo hướng đó vào trong khoang tử cung. (2) Do hưng phấn tình dục, vị trí tử cung cao lên, khiến khoảng cách giữa cổ tử cung và tinh dịch càng gần hơn, có lợi cho tinh dịch chuyển động vào bên trong. (3) Khi âm đạo có tính axit, độ PH là 4 – 5, không có lợi cho sự tồn tại, hoạt động của tinh trùng. Khi cao trào tình dục, dịch âm đạo càng nhiều, PH càng tăng cao, càng phù hợp cho hoạt động tinh trùng.
Khi người vợ xuất hiện cao trào tình dục, có thể thấy miệng ngoài cổ tử cung giãn nở nhẹ, từ khi giãn nở cô tử cung đến khi cổ tử cung đóng lại liên tục khoảng 20 – 30 phút, miệng cổ tử cung mở to để tinh trùng vào khoang tử cung dễ dàng. Nếu người vợ chưa đạt đến cao trào tình dục, hãy quan sát phản ứng sinh lý mở rộng của miệng ngoài tử cung.
Những cặp vợ chồng đã kết hôn lâu mà chưa có thai, nếu xác nhận thân nhiệt cơ bản của người vợ và kiểm tra tinh dịch của người chồng đều bình thường, nhưng sau khi giao hợp, cho thấy trong âm đạo khó thấy được tinh trùng, thì nên nghi ngờ có thể do sinh hoạt tình dục không hợp lý dẫn đến vô sinh.
Hai vợ chồng cùng nhau tìm hiểu kỹ xảo sinh hoạt tình dục, tránh để xảy ra những vấn đề “không phù hợp” đã nói trên, và khi “mây mưa” nhất định phải để người vợ có được cao trào tình dục, như vậy sẽ tăng cường khả năng có thai.