Kiểm tra hỗ trợ thường dùng đối với tiêu hóa mang tính chức năng không tốt.
Chỉ căn cứ vào biểu hiện lâm sàng và kiểm tra sức khỏe không thể phán đoán hết tiêu hóa mang tính chức năng không tốt và tiêu hóa mang tính do bộ máy không tốt. Cho nên lâm sàng vẫn cần kết hợp với kiểm tra ở phòng thực nghiệm nhất định.
Kiểm tra nội soi đường tiêu hóa trên là cách chọn lựa tốt nhất để đánh giá tiêu hóa không tốt. Nội soi có thể phát hiện trực tiếp bệnh tình của loét dạ dày tá tràng, có khối u, viêm dạ dày rữa nát v.v… Mặt khác qua lấy mẫu niêm mạc có thể kiểm tra tổ chức mô. Phối hợp với thí nghiệm nhanh men niệu tố có thể giúp tìm hiểu xem có bị nhiễm Hp hay không, để hiểu sâu thêm tiêu hóa mang tính chức năng không tốt.
Kiểm tra, siêu âm, X-quang v.v… có thể loại bỏ được bệnh ở bộ máy đường ruột, gan, mật, lá lách.
Kiểm tra chức năng dạ dày rỗng, đo áp lực ruột, dạ dày, kiểm tra điện đồ dạ dày, và kiểm tra chức năng của vị toan v.v… đều có thể giúp chẩn đoán bệnh. Nhưng có điều cần phải nhấn mạnh, hiện nay chưa có kiểm tra nào có thể là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán được hoàn toàn. Chẳng qua kết quả của những kiểm tra này giúp cho phân biệt tiêu hóa mang tính chức năng không tốt và tiêu hóa do bộ máy không tốt, và để làm rõ nguyên nhân bệnh tiêu hóa không tốt và cơ chế phát bệnh.
Điện đồ dạ dày có tác dụng gì đối với chẩn đoán tiêu hóa mang tính chức năng không tốt?
Điện đồ dạ dày (EGG) là phương pháp kiểm tra hỗ trợ cho chức năng dạ dày cung cấp cách thức kiểm tra sinh lý điện dạ dày ngoài cơ thể một cách khách quan, định lượng, có giá trị tham khảo cho chẩn đoán lâm sàng về một số vận động nào đó của dạ dày bị trở ngại, là một bổ sung có hiệu quả để chẩn đoán, điều trị lâm sàng cho tiêu hóa mang tính chức năng không tốt.
Điện đồ dạ dày chia thành ghi chép điện dạ dày trong cơ thể (bao gồm ghi chép bề mặt niêm mạc và bề mặt tương mạc), và ghi chép điện dạ dày mặt ngoài cơ thể. Ghi chép điện đồ mặt ngoài cơ thể đơn giản và không đau đớn. Nghiên cứu mới gần đây, đặt điện cực niêm mạc và điện cực mặt ngoài cơ thể qua nội soi đối với người khỏe mạnh, đồng thời ghi chép hoạt động điện dạ dày, chứng minh điện dạ dày mặt ngoài cơ thể có thể phản ánh chân thực hoạt động điện dạ dày trong cơ thể. Từ đó nói lên điện đồ dạ dày mặt ngoài cơ thể cơ bản có thể phản ánh sự thay đổi hoạt động điện của cơ tế bào và cơ trơn ở các khu vực khác nhau của dạ dày.
Kiểm tra điện đồ dạ dày rất thích hợp với những bệnh nhân tiếp xúc X-quang, và kiểm tra hạch tố như đàn bà chửa, nhi đồng, v.v… Những năm gần đây nghiên cứu cơ sở và ứng dụng lâm sàng trên thế giới đều ngày càng coi trọng vấn đề này. Có báo cáo nói hoạt động điện dạ dày có liên quan mật thiết đến điện dạ dày xả hết. Người bị bệnh tiêu hóa không tốt mà động lực dạ dày bị trở ngại, thì có biểu hiện khác thường ở điện dạ dày, bao gồm hoạt động dạ dày quá nhanh, quá chậm, rối loạn và công suất chính sau khi ăn giảm xuống v.v…
Điện đồ dạ dày khác thường mà lâm sàng thường thấy có thể phân thành những kiểu loại như sau:
- Điện đồ dạ dày trước khi ăn rối loạn, nhưng sau khi ăn lại bình thường.
- Điện đồ dạ dày trước khi ăn bình thường nhưng sau khi ăn thì rối loạn.
- Điện đồ dạ dày trước và sau khi ăn đều rối loạn.
- Điện đồ dạ dày bình thường nhưng sau khi ăn vật đặc biệt, biên độ sóng giảm xuống.
Điện đồ dạ dày có thể dùng để chẩn đoán hỗ trợ cho tiêu hóa mang tính chức năng không tốt. về lâm sàng động lực dạ dày gặp trở ngại, chức năng dạ dày rối loạn do các nguyên nhân gây ra đều có thể nhờ vào điện đồ dạ dày để tìm hiểu trạng thái chức năng dạ dày của người bệnh, như bệnh đái đường dạ dày tê liệt nhẹ. Sau khi phẫu thuật đường mật chức năng vận động của dạ dày gặp trở ngại, chức năng dạ dày của người bị sơ cứng gan mất khả năng bù trợ, bị rối loạn v.v…
Cùng với sự thâm nhập điện đồ dạ dày lâm sàng và nghiên cứu cơ sở thì điện đồ dạ dày sẽ càng được ứng dụng rộng rãi cho việc chẩn đoán, hỗ trợ bệnh tiêu hóa chức năng không tốt và có ý nghĩa nhất định với việc tìm hiểu nguyên nhân bệnh, chỉ đạo điều trị lâm sàng. Mục tiêu cuối cùng của việc phát triển điện đồ dạ dày cũng giống như điện tâm đồ, sẽ trở thành công cụ chẩn đoán không thể thiếu ở lâm sàng.