CÁC TIẾNG THỔI TRONG TRIỆU CHỨNG TIM MẠCH
ĐẠI CƯƠNG
Trong một số trường hợp khám tim, ngoài các tiếng tim bình thường chúng ta còn nghe được các tiếng tương tự tiếng không khí thổi qua một miệng ống, ta gọi là các tiếng thổi.
Cơ chế sinh ra tiếng thổi. Một dòng mau khi chảy xoáy mạnh, sẽ gây ra tiếng thổi. Các nguyên nhân của tình trạng gây ra dòng chảy xoáy có nhiều. Khi tăng tốc độ dòng máu, khi dòng máu chảy từ chỗ rộng sang chỗ hẹp hoặc từ chỗ hẹp sang chỗ rộng, hoặc có khi thông hai mạch máu hay thông hai buồng tim, hoặc khi độ nhớt của máu giảm, thì làm tăng độ xoáy của máu và gây ra tiếng thổi.
Trên lâm sàng, người ta có thể nghe được:
Tiếng thổ tâm thu.
Tiếng thổi tâm trương
Tiếng thổi liên tục.
Tiếng thổi tâm thu là tiếng thổi nghe thấy đồng thời với thời gian mạch nảy, tiếng thổi tâm trương với thời gian mạch chìm,do đó khi nghe tim, ta cần phối hợp với bắt mạch, tiếng thổi liên tục nghe được ở cả hai thì nhưng mạch dần ở cuối tâm thu và đầu tâm trương.
Người ta còn dựa vào điện tâm đồ, tâm thanh đồ, mạch đồ, ghi đồng thời để xác định các tiếng thổi trên đây.
Thường thì nghe tiếng thổi tâm thu xuất hiện ngay sau tiếng thứ nhất của tim nhưng vì tai chỉ phân biệt được những thời khoảng không quá ngắn, cho nên khi nghe tim thấy tiếng thổi tâm thu chiếm hết cả thì tâm thu, che lấp cả tiếng thứ nhất.
Tiếng thổi tâm trương thường chỉ chiếm một phần thì tâm trương và nghe sát liền tiếng thứ hai của tim.
Trong tiếng thổi liên tục, không có khoảng nghỉ ở cuối tâm thu sang đầu tâm trương.
PHÂN LOẠI CÁC TIẾNG THỔI
Người ta thường phân biệt hai loại tiếng thổi:
Gồm có:
Tiếng thổi thực thể.
Tiếng thổi chức năng.
Tiếng thổi thực thể là do có tổn thương thực sự ở các van tim gây nên, ví dụ viêm van hai lá, viêm van động mạch chủ. Nếu không có tổn thương ở van tim nhưng vì buồng tim bị giãn to vì một lý do nào đó mà các van tim không đóng được kín mỗi khi co bóp, sẽ gây nên tiếng thổi chức năng.
Tiếng thổi thực thể.
Tính chất lâm sàng của tiếng thổi thực thể.
Vị trí: tùy theo tổn thương ở van nào, tiếng thổi sẽ nghe rõ ở ổ nghe của lỗ van đó (van hai lá, van ba lá, van động mạch chủ, van động mạch phổi). Ví dụ: tiếng thổi tâm thu ở mỏm tim trong bệnh hở van hai lá, tiếng thổi tâm trương ở liên sườn hai bên phải và liên sườn 3 trái xương ức trong bệnh hở van động mạch chủ.
Thời gian: tiếng thổi có thể chiếm cả hoặc chiếm một phần thì tâm thu hoặc tâm trương. Nếu tiếng thổi có liên tiếp cả hai thì tâm thu và tâm trương thì gọi là tiếng thổi liên tục, tiếng thổi này nghe dù dù như tiếng xay lúa nhưng thường mạnh hơn trong thì tâm thu.
Lan truyền: trong đa số các trường hợp tiếng thổi thường lan truyền theo hướng đi của ddòng máu. Sau khi định rõ nơi tiếng thổi nghe rõ nhất, ta thay đổi dần vị trí nghe ta sẽ thấy cường độ tiếng thổi giảm dần đến một lúc không nghe rõ nữa. Nơi tiếng thổi nghe rõ nhất là vị trí tổn thương, các nơi khác nghe ít rõ hơn là nơi tiếng thổi lan đến.
Ví dụ: tiếng thổi tâm thu ở mỏm lan ra nách gặp trong bệnh hở van hai lá.
Thường xuyên: tiếng thổi nghe thấy thường xuyên ở một thì nào đó của chu chuyển tim. Nó không thay đổi nếu người bệnh thay đổi tư thế. Vì vậy bao giờ ta cũng phải nghe tim người bệnh ở nhiều tư thế khác nhau: nằm ngửa, nằm nghiêng, ngồi…
Cường độ, âm thanh, âm sắc: tiếng thồi nghe trầm trầm nếu ddòng máu qua một lỗ tương đối to, âm thanh nghe cao nếu lỗ nhỏ hơn. Âm sắc cao, thô ráp khi các thành của van tim đã chai cứng. Tiếng thổi mờ, không rõ khi các thành này còn mềm hoặc ưng phù có thịt sùi, tổn thương còn mới hay đang tiến triển.
Tiếng thổi thực thể gồm ba loại sau:
Tiếng thổi tâm thu.
Tiếng thổi tâm trương (riêng tiếng thổi tâm trương ở mỏm tim có âm sắc như tiếng rung dùi trống trên mặt trống nên gọi là tiếng rung tâm trương).
Tiếng thổi liên tục.
Sau đây là bảng sắp xếp các tiếng thổi thực thể
Tiếng thổi |
Địa điểm |
Tính chất |
Hướng lan |
Tên bệnh |
Tiếng thổi tâm |
Mỏm tim |
Chiếm hết thì tâm thu, như tiếng phụt hơi nước, |
Ra nách và sau lưng. |
Hở van hai lá. |
Cơ chế phát sinh các tiếng thổi.
Các tiếng thổi ở tim đều phát sinh bởi một nguyên do là dòng máu đi từ chỗ rộng vào chỗ hẹp rồi lại qua chỗ rộng.
Trong trường hợp hở van hai lá, tiếng thổi tâm thu phát sinh ra do ddòng máu phụt từ thất trái lên nhĩ trái qua lỗ van hai lá không đóng kín.
Trong bệnh hẹp van động mạch chủ và hẹp van động mạch phổi, tiếng thổi sinh ra do ddòng máu từ thất trái và thất phải đi qua lỗ hẹp của các van tổ chim trong thì tâm thu.
Trong bệnh hở van độn gmạch chủ có tiếng thổi tâm trương vì có một luồng máu từ động mạch chủ chạy về thất trái trong thì tâm trương do van động mạch chủ đóng không kín.
Trong bệnh hở van động mạch phổi có tiếng thổi tâm trương vì có dòng máu động mạch phổi chạy lại thất phải trong thì tâm trươngdo van động mạch phổi hở.
Trong bệnh thông liên thất, dòng máu đi từ thất trái sang thất phải qua lỗ thông gây ra tiếng thổi.
Trong bệnh hẹp van hai lá, tiếng rung tâm trương phát sinh do dòng máu từ nhĩ trái ồn qua chỗ hẹp của van và va vào hệ thống dây chằng cột cơ.
Trong bệnh còn ống động mạch, có tiếng thổi liên tục vì có ddòng máu xoáy qua ống, đồng thời vì có sự thay đổi áp lực máu từ động mạch chủ tối động mạch phổi mà gây ra tiếng thổi liên tục.
Tiếng thổi chức năng.
Có khi van tim không bị tổn thương nhưng vì một lýdo nào đó làm buồng tim giãn to, các van không đóng kín được nữa, vì thế phát sinh tiếng thổi ki tim co bóp. Như vậy tiếng thổi chức năng là do một sự hư hại ở cơ tim (tim giãn to) chứ không phải do một tổn thương của màng trong tim (viêm nhiễm). Loại tiếng thổi này thương êm nhẹ, ít khi lan và hay thay đổi. Đặc điểm chủ yếu để phân biệt tiếng thổi chức năng và tiếng thổi thực thể là tiếng thổi chức năng không bao giờ có rung miu cả.
Tiếng thổi chức năng có trong trường hợp suy tim trái, trong đó buồng tim bị giãn to khiến các van không đóng kín được nữa gây ra hở chức năng của van hai lá và phát sinh ra tiếng thổi. Tiếng thổi chức năng sẽ mất đi khi ta điều trị suy tim làm cho buồng tim nhỏ lại, trái lại nếu là tiếng thổi thực thể, nó sẽ mạnh lên khi timbớt suy vì tim có thể bóp mạnh hơn. Đó cũng là một cách phân biệt với tiếng thổi thực thể.
Phân biệt tiếng thổi thực thể và tiếng thổi chức năng.
Tiếng thổi thục thể |
Tiếng thổi chức năng |
|
Vị trí |
Có ở cả 5 ổ van tim. |
Hay có ở động mạch phổi sau đó đến ở van hai lá. |
Thời gian |
Tâm thu, tâm trương, liên tục. |
Chủ yếu là tiếng thổi tâm thu mà cũng ít khi chiếm hết thì tâm thu, rất ít khi gặp tiếng thổi tâm trương chức năng. |
Cường độ âm sắc |
Thường mạch rõ, trừ tiếng thổi tâm trương không mạnh bằng). |
Thường nhẹ, êm dịu, rất ít khi mạnh, nếu có mạnh cũng không có rung miu. |
Lan truyền |
Lan xa theo ddòng máu. |
Ít lan |
Rung miu |
Thường có, nhất là trong các trường hợp hẹp van. |
Không |
Tính chất thường xuyên |
Có thường xuyên, không thay đổi khi thay đổi tư thế người bệnh. |
Có thể thay đổi, thậm chí mất hẳn khi người bệnh hít vào sâu, đổi tư thế hoặc sau kết quả điều trị |
Tiếng thổi ngoài tim.
Đó là tiếng thổi nghe thấy ở những người hoàn toàn không có một tổn thương nào ở tim cả, vì vậy loại tiếng thổi nàu cũng không có một giá trị bệnh lý gì.
Tiếng thổi ngoài tim có thể gặp ở tất cả mọi lứa tuổi nhưng hay thấy hơn ở những người trẻ có quả tim dễ bị kích thích. Tiếng thổi đó nghe ở ngoài vị trí của các ổ tim, ở thì tâm thu, không lan truyền, mất đi khi đổi tư thế hay khi hít vào sâu.
Người ta cho rằng sở dĩ có tiếng thổi này là do tim bị che lấp ở phía trước và hai bên bởi các phân thùy phổi lân cận. Khi tim co lại (tâm thu) hoặc giãn ra (tâm trương), nó sẽ làm cho phổi cũng giãn ra hoặc bóp lại theo, không khí bị hít theo vào hoặc bị đẩy ra bởi các phân thùy phổi đó sẽ phát sinh ra các tiếng thổi.
Trong bệnh thiếu máu,do quá loãng máu nên khi tâm thu dòng máu đi nhanh cũng có thể làm rung thành tâm thất va van tim gây ra tiếng thổi, vẫn thường gọi là tiếng thổi thiếu máu.