Đỗ trọng cùng Tục đoạn
CÔNG HIỆU KHÁC NHAU
Đỗ trọng cùng Tục đoạn đều bổ can thận, an thai, dùng chữa yếu tất toan thống, an thai thường cùng phối hợp. Nhưng đỗ trọng lực bổ ích rất lớn, bổ mà không chạy, vả lại cường cân cốt, giáng huyết áp – Tục đoạn bổ tích lực không bằng đỗ trọng, bổ mà lại chạy, thông lợi huyết mạch, tiêu thũng, tán li lực rất mạnh, vả lại tục cân, tiếp cốt bổ tục huyết mạch, sinh cơ chỉ thống.
CHỦ TRỊ KHÁC NHAU
1 – Đỗ trọng chủ trị thận hư, yêu thống, vô lực.
Tục đoạn chủ trị gân xương gãy đứt thành thương
Đỗ trọng bổ ích can thận, cường kiện cân cốt. Dùng chữa can thận bất túc dẫn đến yêu tất toan thống, vô lực.
Như “Y trung Phương” trị yêu thống – Dùng Đỗ trọng 1 cân, ngũ vị tử nửa cân, dương thận 3 – 4 quả, lúc đói ăn ngay hoặc cùng ba kích thiên, cửu tích, tang ký sinh, trị yêu thống, vô lực.
Tục đoạn đã hay bổ can, ích thận, lại thông lợi huyết mạch, tục đoạn tiếp cốt. Vì thế không những chữa thận hư yêu thống, vô lực, mà còn hay chữa thương tổn vì ngã hay vì đòn đánh. Thường dùng tô mộc, đương quy, đào nhân, hồng hoa, huyết kiệt, ngân hoa – Cũng có thể dùng đơn vị này.
“Vệ sinh dịch giản phương” Trị thương bị đòn đánh.
Thiểm nạp cốt tiết, dùng tiếp cốt thảo dã nát đổ bên ngoải.
2 – Đỗ trọng chủ thai động không yên, băng lậu hạ huyết. Tục doạn lại chủ trị ung thư, sang nhọt.
Đỗ trọng ích can thận, ôn noãn hạ nguyên, nên dùng chữa can thận hư hàn, thai nguyên bất cố vì thế mà đang có mang ra huyết, thai động lưu sản.
Như “Chứng trị chuẩn thằng” – Đỗ trọng hoàn (đỗ trọng, tục đoạn đều 2 lạng, tán nhỏ, nhục táo làm hoàn to bằng hạt ngô, mỗi lần dùng 7 viên với nước cơm). Trị chứng có mang 2 – 3 tháng thai động không yên đề phòng muốn trụy. Nếu bằng thai lậu, thai băng thường dùng a giao, ngải diệp, đương quy, bạch thược, tục đoạn, tông đồng thán để chữa.
Tục đoạn chẳng những chữa thai động không an, băng lậu, mà còn lấy bổ mà hay chạy thông lợi huyết mạnh, tiêu thũng, tán ứ, sinh cơ, chỉ thống, dùng chữa mụn nhọt.
Như “Bản thảo hối ngôn” trị nhũ ung, dùng xuyên tục đoạn, bồ công anh, đều dã nhỏ, mỗi buổi sớm chiều, đều dùng 2 đồng uống với nước trắng. Nếu như ung mới phát thì tiêu ngay, lâu dùng cũng khỏi. Nếu chữa ung thư, mụn độc, nhiệt thịnh dùng phối hợp với ngân hoa, địa đinh, thảo hà sa, xích thược.
Đặc thù xử trí khác nhau.
“Kê phong bị cấp phương” – Trị lão nhân thận tạng hư hàn, nội thận kết ngạnh, dùng thuốc bổ không vào. Phải dùng dương thận một bộ (hoặc quả cật lợn một đôi) đỗ trọng (hai tấc trường, khoát 1 tất) mật phiến.
Cùng cho vào nấu chín, lúc đói uống. Khiến cho thận của người mềm ra, sau mới dùng thuốc bổ được.
Tục đoạn bổ tục huyết mạch, hay lý huyết mạch tổn thương xuất huyết.
Như “Phổ tễ phương” Bồ hoàng tán. Trị thương tổn, trong bụng ứ huyết, không muốn nghe ai nói cả. Trong bụng khí tắc, tiện lợi xuất huyết. Dùng tục đoạn phối hợp đương quy, nhục quế, bạch chỉ, sinh địa hoàng, cam thảo.
“Tế âm cương mục” Tục đoạn thang. Trị có mang ra máu và đái ra máu, dùng tục đoạn phối ngũ với đương quy, sinh địa hoàng, xích thược.