ĐÔNG Y CHỮA HỘI CHỨNG CỘT SỐNG CỔ
Biện chứng Đông y:
Thận khí hư khuy, kiêm có hàn thấp.
Cách trị:
Ôn thông tán hàn, bô’ Thận trừ thấp, giải kết, mạnh gân xương.
Đơn thuốc:
Cảnh chuỳ thang.
Bài thuốc:
Hổ trượng 24g, Lộc cân 18g, Kỳ xà 15g, Tang ký sinh 24g, Xuyên mộc qua 9g, Dĩ nhân (sao) 30g, Nữ trinh tử 18g, Đỗ trọng 18g, Đảng sâm 18g, Tục đoạn 18g. Sắc uông mỗi ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng:
Hồ XX, nam 42 tuổi, cán bộ. Khám, ngày 5/4/1975. Hơn 1 năm nay cổ cứng, đau nhức, xoay cổ khó khăn, hai tay đau nhức, tê cứng, chóng mặt, đau lưng. Bản thân có tiền sử bị phong thấp. Năm 1974 do làm việc không cẩn thận bị chấn thương, sau đó cổ và lưng thường đau nhức, vận động khó, chóng mặt hoa mắt. Bệnh viện khám kiểm tra độ lắng máu là 56mm/giờ, chụp X quang, chẩn đoán viêm khớp xương sông cổ 4, 5. và đốt xương sống cổ 6 bị biêh dạng, đốt sống cổ 5 trước đây bị thoái hoá, chụp lại lần thứ hai vẫn chưa khỏi, cho là khớp đốt sông cổ bị viêm và có gai, đề nghị phẫu thuật để giải quyết cho khỏi đau, bệnh nhân không đồng ý mổ, yêu cầu uôhg thuốc đông y.
Hiện trạng cổ gáy cứng, khó hoạt động, tay trái teo cơ, yếu, sắc mặt không quang nhuận, dưới mắt nổi quầng đen, mách Huyền Tế, chất lưỡi hơi đỏ, rêu lưỡi trắng. Bệnh do thận khí hư suy, hiệp với hàn thấp xâm nhập. Phép trị là ôn thông kinh mạch, tán hàn, bổ Thận, trừ thấp, trừ bế kết, mạnh gân xương. Dùng Cảnh chuỳ thang phôi hợp thuốc bôi ngoài: Kê cốt hương, Lưỡng diện châm, Biển bá diệp, Mao xạ hương, Hoàng bá, Quá giang long, Bội lan đều 680g (1 cân). Các vị nghiền bột trộn đều, dùng rượu chưng nóng đắp vào cổ và khớp vai, mỗi ngày thay thuốc 1 lần. Điều trị 1 tháng, uôhg tổng cộng 20 thang, đắp 20 miếng thuốc, tự cảm thây cổ bớt đau nhiều, các khớp cổ viêm cũng có chuyển biến, bắp thịt cánh tay trái dần dần nở lớn, di chuyển thấy linh hoạt hơn, hết váng đầu và đau lưng, tinh thần phấn chấn, đã công tác lại như thường, theo dõi hơn 2 năm. không thấy tái phát.
Nhận xét:
Hội chứng xương sông cổ, trên lâm sàng thường gặp loại bệnh ở đốt sống cổ hoặc ở cột sống cổ – tay. Triệu chứng chủ yếu là cổ khó hoạt động, lưng trên, vai, vùng trước ngực và vai, cánh tay, tay đau nhức. Trước đây, các phương pháp chữa bệnh này không có kết quả lắm. Theo lý luận Đông y, bệnh này có liên hệ đến Thận, vì Thận chủ xương, Thận khí hư suy không sinh được tuỷ, nếu khí huyết bất túc lại thêm hàn thấp thừa cơ hư yếu xâm nhập vào,ngưng tụ ở cổ gáy, làm cho kinh lạc bị bế tắc, khí huyết không lưu thông được, không thông thì đau nhức… gây nên bệnh. Đốì với chứng này phải nội ngoại^kiêm trị (vừa uôhg thuốc bên trong, vừa đắp thuốc bên ngoài), sẽ đạt được hiệu quả cao (Chu Trác Phong – tỉnh Quảng Đông).