ĐIỀU TRỊ XUẤT TINH SỚM
Dùng thuốc
Một số phát hiện gần đây về tác động của thuốc tới việc xuất tinh đã đem lại nhiều hy vọng cho việc điều trị những trường hợp xuất tinh sớm do nguyên nhân thần kinh.Chẳng hạn các loại thuốc như thuốc giả giảm xuyễn, thuốc giảm xuyễn, thuốc phenylpropanolamin được tìm ra để hỗ trợ việc xuất tinh trong những trường hợp xuất tinh chậm bằng tác dụng tăng cường hoạt động giao cảm; những báo cáo thú vị một cách lộng ngôn về khoái cảm ở những bệnh nhân dùng Clomipramin (61) và sự khoái cảm tuỳ hứng gắn với việc tăng liều dùng Fluoxetine (65). Nhũng khám phá này đã dẫn đến một nghiên cứu về một số loại thuốc làm chậm sự xuất tinh.
Ba nhóm chính là thuốc kháng Dopamine, chống trầm uất và chất kích thích.
- Thuốc kháng dopamin
Nhóm thuốc này ngăn chặn các trung tâm tiếp nhận dopamine bao gồm cả các loại chống rối loạn tâm thần (hay Neuroleptics). Tác dụng ngăn ngừa việc xuất tinh sớm được ghi nhận khi nghiên cứu thấy :
- Tác động kích thích tình dục của Apomorphine (một loại cộng hưởng với dopamin) bị kháng bởi Hadoperidol, một tác nhân kìm hãm trung tâm tiếp nhận dopamin.
- Apomorphine bị kháng bởi Sulpiride, một tác nhân kìm hãm sự tiếp nhận dopamin không điển hình.
Các thuốc kháng dopamin làm cản trở việc xuất tinh trên người và động vật gồm :
- Pimozide
- Metoclopramide
- Sulpiride
- Haloperidol
- Kháng oxytocin sinh dục
- Vasotocin
Các thuốc chống rối loạn tâm thần làm chậm quá trinh xuất tinh, do tác dụng ngăn chặn adrenergic, gồm :
- Chlorpromazin
- Thioridazin (63)
- Thuốc giảm đau :
- Một nhóm thuốc mới làm chậm xuất tinh là các thuốc giảm đau. Chúng làm tăng lượng Tác dụng của những loại thuốc này là :
- Ngãn cản sự phân huỷ serotonin có chọn lọc (SSRIs)
- Ngoài tác dụng ngăn cản sự phân huỷ serotonin (5-HT). Các thuốc này còn có ảnh hưởng kháng
Người ta phân tích rằng lượng serotonine tăng lên sẽ làm ngăn cản việc xuất tinh. Các loại thuốc này gồm :
- Fluoxetin
- Sertralin
- Paroxetin
Thuốc giảm đau 3 vòng cũng được ghi nhận có tác động lên việc xuất tinh. Các loại thuốc này có đặc tính an thần, kháng cholinergic và kháng histamin. Thêm vào đó chúng còn ngăn cản sự phân huỷ serotonin. Trong các thuốc này, chomipramin ngăn cản sự phân huỷ cả serotonin và Noradrenaline. Tuy nhiên nó chỉ làm tăng ngưỡng cảm giác đối với các kích thích ở khu vực bộ phận .sinh dục ngoài nhung không ảnh hưởng lên phản ứng kích động cảm giác ở lưng. Một loại thuốc giảm đau 3 vòng được ghi nhận làm ngăn cản sự xuất tinh là amitriptylin với cơ chế kháng cholinergic rõ rệt.
Đê so sánh côns hiệu và độ an toàn giữa nhóm fluoxetin, sertralin với Clomipramin trên những bệnh nhân xuất tinh sớm, một công trình nghiên cứu gần đây cho kết quả :
– Clomipramine và sertraline kéo dài thời gian tiềm ẩn xuất tinhhơn fluoxetin hoặc giả được. Mức độ thoả mãn tình dục cho bạntình của Clomipramin cao hơn so với sertralin hoặc fluoxetin.
– Tác dụng phụ của Clomipramin cũng cao hơn sertralin vàfluoxetin.
- Loại thuốc Anxiolytics
Một số loại thuốc Benzodiapin có tác dụng an thần trong điều trị sự lo âu, hoảng loạn nói chung còn có tác dụng ức chế việc xuất tinh. Các thuốc này gồm có (27) (50):
- Cholordiasepoxide
- Lorazepum
- Alprazolam
Mặc dù, ảnh hưởng của chúng đến việc xuất tinh không nhiều và mạnh mẽ như các loại thuốc khác như SSRIs, nhưng các nghiên cứu về những loại thuốc này cho thấy 10% đàn ông đã kìm hãm được sự xuất tinh.
Buspirone, 1 phần 5 – HT, cũng có tác dụng cải thiện một phần chức năng tình dục ở những bệnh nhân rối loạn tâm thần (33) (70).
- Các thuốc khác
Phenoxybenzamin ức chế sự kích thích Alpha-Adrenergic nên cũng có tác dụng kìm hãm việc xuất tinh.
Việc xuất tinh sớm có thể không chỉ đơn thuần được điều khiển của hệ thống thần kinh giao cảm như người ta thường nghĩ trước đây. Nhiều công trình nghiên cứu gần đây cho thấy việc xuất tinh có thể được điều khiển hài hoà giữa hai hệ thống thần kinh giao cảm và phó giao cảm. Thí dụ như hệ thẩn kinh giao cảm chỉ huy việc dưa tinh dịch vào các túi chứa tinh, hệ thần kinh phó giao cảm chịu trách nhiệm giải phóng tinh dịch (7).
Gây tê vùng và gây tê dương vật
- Gây tê tại chỗ dương vật
Một công trình nghiên cứu của Bercovich M. (56B) đã mô tả tác dụng của các chất benzocain, dibucain dung dịch 3% làm ức chế việc xuất tinh. Kem prilicain – lidocain bôi lên dương vật trước khi giao hợp 30 phút cho kết quả kéo dài thời gian tiềm ẩn xuất tinh cho 82% bệnh nhân.
Cũng có thể dùng tại chỗ một số thuốc từ các họ Belladona Kiềm, Camphor monobromide Levodopar và papaverin. Điều trị bằng phương pháp tiêm vào vật hang để chữa xuất tinh sớm cũng đã áp dụng nhưng gặp nhiều phiền phức vì bệnh nhân không tự tiêm được cho mình.
Vì việc tăng cảm giác quá mức của dương vật đóng vai trò quan trọng sống còn về sinh bệnh lý đối với xuất tinh sớm, năm 1999- Hyung Ki Choi và Koon Ho Rha (36) đã sáng chế ra một loại kem bôi vào dương vật mang ký hiệu là kem ss. Kem ss được điều chế từ các loại thảo mộc thiên nhiên (tác giả không nói tên thảo mộc) có tác dụng làm giảm sự nhậy cảm quá mức của dương vật và không gây ra các tác dụng phụ như khô miệng, mệt mỏi. Ba công trình nghiên cứu lâm sàng liên tiếp về việc sử dụng kem ss (có dùng phương pháp mù đôi so sánh) trên 106 bệnh nhân xuất tinh sớm cho kết quả :
– Dùng kem ss – 82,2% bệnh nhân đã kéo dài được thời gian giao hợp trên 2 phút. 82,2% làm thoả mãn được bạn tình.
– Dùng giả được – chỉ có 10,3% kéo dài được thời gian giao hợp trên 2 phút và 12,6% làm thoả mãn được bạn tình.
- Phóng bế vùng thần kinh đuôi ngựa (infiltration epỉduvale)
Theo dòng điều trị “cải lão hoàn đồng” của Rumani trong đó việc sử dụng chất novocain, lidocain là chủ yếu, năm 1996 tại khoa tiết niệu bệnh viện Việt Đức – Hà Nội Trần Quán Anh và Nguyễn Quang Kừ đã dùng phương pháp phong bế vào vùng thần kinh đuôi ngựa 20ml dung dịch novocain 0,5% – 1 tuần 2 lần trong 5 tuần lễ liên tục (55).
Nguyên tắc của phương pháp này là đưa dung dịch novocain hoặc lidocain vào vùng đám rối thần kinh cùng. Cơ chế của nó không chỉ là kháng adrenergic mà còn điều chỉnh sự thăng bàng giao cảm và phó giao cảm. Với thử nghiệm lâm sàng trên 100 bệnh nhân xuất tinh sớm và di tinh nặng cho kết quả 75% bệnh nhân có thể kéo dài được cuộc giao hợp trên 5 phút và hiện tượng di tinh mất hẳn.
- Đeo bao cao su :
Cũng được theo nguyên tắc làm giảm độ nhậy cảm tiếp xúc của dương vật gây xuất tinh quá sớm, việc khuyên những bệnh nhân này dùng bao cao su khi giao hợp mang lại hiệu quả tốt đó là chưa kể đến tác dụng tránh có thai và tránh lây lan những bệnh đường sinh dục.
- Châm cứu :
Điều trị tâm lý :
Nhiều lý thuyết về tâm lý học đã chứng minh bệnh xuất tinh sớm bị ảnh hưởng bởi sự lo âu, trầm cảm, rối loạn cá tính do mối quan hệ với người bạn tình, với xã hội…
Chứng nào các rối loạn tâm lý chưa được điều chỉnh tốt thì việc điều trị đơn thuần về chuyên môn ít có hiệu quả. Cần xem xét mức độ rối loạn tâm lý của bệnh nhân trước khi lập phương án điều trị. Nhiều bệnh nhân bị rối loạn tâm lý trầm trọng thì cần tiến hành trị liệu tâm lý trước, kể cả trị liệu về ứng xử.
Helen Singer Kaplan, nhà tâm lý học Mỹ, đã phân loại rối loạn tâm lý trong rối loạn tình dục làm 3 mức độ : nhẹ, trung bình và nặng.
- Rối loạn nhẹ là những người hay lo âu, ám ảnh về sự yếu kém của mình trong hoạt động tình dục, không tha thiết với chuyện tình dục.
- Rối loạn trung bình là những trường hợp có ảnh hưởng không thuận lợi từ phía gia đình, tiền sử sang chấn tâm lý thời niên thiếu về sinh hoạt tình dục để lại một ám ảnh lo âu.
- Rối loạn nặng là những trải nghiệm thất bại nặng nề về hoạt động tình dục thời niên thiếu ; những cấm kỵ cực đoan về lề luật tôn giáo về tập tục gia phong liên quan đến tình dục; kể cả những xung đột gay gắt giữa cá nhân xã hội, giữa cá tính của đôi bạn tình trong một cuộc hôn nhân ép buộc (48).
Đề ra một phương án để điều chỉnh những rối loạn tâm lý cần chú ý một số đặc điểm như sau :
- Thái độ xúc tiếp ban đầu
Người bệnh, với bao nhiêu lo âu phiền muộn và sự mặc cảm tự ty yếu kém về giới tính sẵn có, lần đầu tiên đến gặp thầy thuốc sẽ có nhiều băn khoăn mới phát sinh : liệu lần này có chữa khỏi hay không ? Có tốn kém không ? Và có ảnh hưởng đến sinh hoạt thường ngày hay không ?
Cuộc thăm khám lần đầu không chỉ là buổi thu thập thông tin mà là cuộc đối thoại với người bệnh hoặc cặp vợ chồng người bệnh nhằm thúc đẩy ý chí của bệnh nhân phối hợp với kế hoạch điều trị trong tương lai. Cuộc đối thoại phải được diễn ra trong một không khí thoải mái và kín đáo một cách tế nhị để người bệnh có thể trình bày đầy đủ những điều thầm kín riêng tư của mình. Thái độ người thầy thuốc cần có sự trân trọng người bệnh. Ngôn ngữ dùng nên đúng mức, không quá thiên về y học, càng không ncn sỗ sàng miệt thị khi bệnh nhân bày tỏ những yêu cầu của mình (32).
- Cần gây được sự tin tưởng của người bệnh
Nhóm bệnh nhân này thường đã “vái tứ phương”. Tiền mất rất nhiều mà tật vẫn mang. Bằng mọi cách người thầy thuốc phải chinh phục được lòng tin của bệnh nhân. Có tin tưởng tuyệt đối vào phương án sắp sửa chấp nhận điều trị thì việc điều trị mới có kết quả. Muốn vậy người thầy thuốc phải biểu hiện được cái tâm
của mình. Phải cho bệnh nhân thấy rõ quá trình chẩn đoán và điều trị của mình tuân thủ những quy trình khoa học một cách triệt để nhằm mục đích chính là mang lại hiệu quả tốt trong điều trị chứ không nhằm mục đích lý tài, khoa trương tự tâng bốc đây là phương pháp gia truyền, độc tôn để lôi kéo người bệnh. Sự ân cần trong tiếp xúc, thái độ trân trọng thông cảm với người bệnh đường lối điều trị khoa học hiện đại, là cơ sở gây được niềm tin.
Củng cố được niềm tin, quan hệ giữa thầy thuốc và bệnh nhân không còn sự cách biệt. Cần chú ý lắng nghe những lời trình bày thành thật dấu kín tự đáy lòng người bệnh để chọn lọc tìm ra những nguyên nhân sâu xa khởi phát bệnh. Cần gặp gỡ riêng người chồng vì có thê người bệnh muốn dấu những người thân kể cả vợ mình. Nhưng sau đó rất cần thiết gặp gỡ cả hai vợ chổng. Sự thông cảm chia sẻ nỗi bất hạnh của nhau cũng như sự cộng tác trong quá trình điều trị sắp tới của người chồng, người vợ có một vị trí rất quan trọng.
- Hướng dẫn các biện pháp tự điều chỉnh.
Mỗi trường hợp xuất tinh sớm đều có những nguyên nhân khác nhau. Phải tìm đúng nguyên nhân chủ yếu gây bệnh thì sự tư vấn các biện pháp tự điều chỉnh mới có hiệu quả.
Với những thanh niên giao hợp đầu tiên, vì quá hồi hộp trước những cảm súc hết sức mới mẻ nên xuất tinh rất sớm. Chỉ cần hướng dẫn nên tiếp tục, ngay trong đêm đó, giao hợp lần thứ hai (thời gian tiềm ẩn xuất tinh chắc hẳn sẽ lâu hơn). Bệnh nhân quen dần với súc tiếp, tự tin hơn và dần dần sẽ khỏi bệnh.
Một nhóm khác, vì độ cương dương vật không đủ cứng, đã vội vàng hấp tấp nhập cuộc ngay vì sợ dương vật sẽ xỉu đi. Những trường hợp đó phải có biện pháp hỗ trợ tăng độ cương dương vật (xem phần rối loạn cương dương) để bệnh nhân đủ tự tin và chủ động hơn trong việc kìm hãm xuất tinh.
Có những người than phiền từ cơ thể người vợ bốc ra mùi hôi rất khó chịu nên muốn xuất tinh cho nhanh để kết thúc sớm ; hoặc người vợ mặc quần áo quá chật rất khó cởi bỏ làm mất quá nhiều thời gian bị kích thích trong màn “dạo đầu”… Những trường hợp đó cần tư vấn cho người vợ nên khắc phục.
Khó khăn nhất vẫn là những trường hợp có mâu thuẫn lứa đôi hoặc hôn nhân ép buộc. Không thê nào điều trị được tốt khi đôi trai gái có nhũng bất đồng quá lớn. Làm sao có thể đòi hỏi họ có những động tác hiệp đồng gây hứng khởi hoặc rỉ tai nhau những nhu cầu ham muốn đòi hỏi. Điều trị tâm lý là nhằm giải quyết những trở ngại trong quan hệ tình dục để duy trì cuộc sống hoà hợp lứa đôi. Mỗi bên cần được động viên, chia sẻ cởi mở với nhau. Nếu dè dặt, lãnh đạm miễn cưỡng thiếu tự tin việc điều chỉnh sẽ ít kết quả. Nếu chí hoà hoãn tạm thời những mâu thuẫn trong hôn nhân thì cuộc điều trị cũng sẽ thất bại. Phải đối mặt với thực trạng và tìm những biện pháp hợp lý cho cả đôi bên thì mới hy vọng đạt hiệu quả.
Tại Mỹ có những trường huấn luyện dậy về các kiểu giao hợp để điều chỉnh được việc xuất tinh. Phương pháp tập luyện của Marters và Johnson là để hình thành một vòng cung phản xạ mới
trên vỏ não. Nguyên tắc của phương pháp là : đê người vợ làm mọi động tác kích thích dương vật của chồng ; khi gần xuất tinh thì cấu mạnh vào đầu dương vật của chồng; gây đau làm đầu dương vật xỉu lại ; động tác tập luyện được lặp đi lặp lại nhiều lần cho đến khi người chồng cảm thấy tự tin và tự chủ được việc xuất tinh thì mới tiến hành giao hợp thực sự ; ngay khi giao hợp người chồng nhận thấy chưa đú khả năng tự kiềm chế việc xuất tinh thì rút ra ngay và nhấc lại phương pháp tập luyện trên. Phương pháp này có kết qua tốt nhưng đòi hỏi sự kiên nhẫn cúa cả hai vợ chổng trong thời gian nhiều tháng kéo dài.
Một phương pháp đơn giản hơn : trong quá trình giao hợp, bắt người chổng phái đếm số lần “nhịp dập” một cách chính xác; bị phân tâm bởi việc đếm, thời gian có thể kéo dài hơn. Tim mọi cách phân tâm trong lúc giao hợp là những điều từng người chồng phải tự chọn cho thích hợp.
Điều trị phẫu thuật
Với mục đích nhằm triệt bỏ sự quá mẫn cảm ở đầu dương vật, người ta có thể tiến hành 2 loại phẫu thuật:
- Rạch một đường vòng khoanh thân dương vật, gần sát rãnh chỏm dương vật sâu tới lớp cản Buck ; chú ý không làm thương tổn các mạch máu lưng dương vật. Phẫu thuật này sẽ cắt đi tới 80% dây thần kinh cảm giác ngoại vi của đầu dương vật.
- Cắt bỏ dầy thần kinh lung dương vật. Phẫu thuật này sẽ làm giảm sự mẫn cảm của dương vật.
Nên thận trọng khi chỉ định phẫu thuật vì có thể những phẫu thuật này gây rối loạn cương dương.
ĐIỀU TRỊ XUẤT TINH CHẬM HOẶC KHÔNG XUẤT TINH
- Dùng thuốc
Trên nguyên tắc dùng các loại thuốc làm tăng quá trình hưng phấn adrenergic. Như vậy tất cả các loại thuốc đối kháng với các thuốc điều trị xuất tinh sớm đều có thể sử dụng được.
- Phóng bế vùng thần kinh đuôi ngựa
Có thể sử dụng vì có tác dụng điều chỉnh sự hoạt động cân bằng nhịp nhàng giữa hệ thần kinh giao cảm và phó giao cảm. Có thể sử dụng châm cứu để điều trị (97).
- Điều trị phẫu thuật Có hai phương pháp :
Đặt qua hậu môn các máy phát ra sóng xung động kích thích vùng túi tinh để kích thích cho việc xuất tinh dễ dàng.
Dùng các phẫu thuật nội soi để rạch rộng ụ núi (Veru- montanum) hoặc vùng cổ túi tinh nếu như có dấu hiệu tắc hẹp (2).
- Điều trị tâm lý :
Là nguyên tắc chung trong phác đổ điều trị sử dụng đối với tất cả bệnh rối loạn chức năng sinh dục.
KẾT LUẬN
Rối loạn xuất tinh là một bệnh không gây tử vong, không gây các biến chứng cấp cứu nhưng ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống hạnh phúc lứa đôi. Người vợ luôn luôn bị dằn vặt vì những
bực bội không nói ra lời. Người chồng luôn luôn bị ám ảnh bởi sự lo âu chán nản, buồn bã, nguồn gốc của nhiều bệnh thần kinh và tâm thần sẽ phát sinh.
Số người mắc bệnh ngày một phát hiện ra nhiều bệnh nhân không biết tìm đến đâu đê khám bệnh và điều trị. Trung tâm điều trị chuyên sâu chưa có. Các thầy thuốc điều trị hình như lãng quên căn bệnh của đời thường này. Đây là một tồn tại của ngành ta cần được tiếp tục bàn luận.