“ĐÁI – HẠ”

 

CHÂM CỨU CHỮA BỆNH PHỤ KHOA
CHÂM CỨU CHỮA BỆNH PHỤ KHOA

a) KHAI-THUẬT:

Người đàn bà bị 1 thứ bệnh mà trong Âm-đạó chảy ra 1 loại dịch-thể nhờn có mùi, giống như nước mũi, như mủ, như nước,  hoặc trắng hoặc đỏ, hoặc tanh hoặc hôi, kéo dài  ra như những sợi dây đai’ cho nên gọi là ‘đái  hạ’. Gần đây đa số các cô gái không tôn trọng những điều cấm-ky, thất tình quá mức, không giữ lẽ đieu-nhiếp, vì thế nên người nào cũng gần như là bị bệnh này. Người xưa chia làm 5 loại đái hạ: Xích, Bạch, Hoàng, Thanh, Hắc, lại còn quy vào ngũ tạng, thế nhưng ngày này thông thưởng người ta thấy có Xích và Bạch là thôi.

Nội-kinh nói: “ Tư-tướng vô cùng, ước nguyện không toại, ý dâm ra ngoài, nhập phòng thái quá, phát thành Bạch (đái). ” Đồng Thạch-Sơn nói: “. Bệnh “đái” có phần làm Xích và Bạch, bệnh có sự khác nhau giữa khí huyết, giống như chứng “Lỵ”  đó là trung-khí tốn-nhược, vận-hành thất thường làm cho khí Thấp-nhiệt bị uất-kết ở Hạ-tiểu, chảy thấm và không ngừng chỉ nên gọi tên là “đái-hạ’. Ngoài ra, Nội kinh còn nói:” Nhậm mạch bị nội bệnh người con gái bị đái hạ trưng tụ “. Nói tóm lại, nguyên-nhân bệnh do ở lao nhọc làm thương Tỳ làm cho trung-khí hư tổn; ưu nộ thương Can, khí uất-nhiệt khắc Thổ; hoặc  do sinh sản, việc gia-hợp mệt-mỏi làm thương đến Thân Thận hư mất đi chức-năng tàng tinh.. tất cả làm cho mạch Xung và mạch Nhạm bị tổnthương, mạch Đái’mất đi khả-nắng ràng buộc mà gây nên bệnh ảnh hưởng đến Thân, Thận hư, mất đi chức-năng tàng Tinh. Tất cả sẽ làm cho mạch Xung và Nhạm bị tônthương, mạch Đái mất đi chứe-năng ‘ràng-buộc ” để gay thành chứng “đái hạ”.

Chứng ‘Bạch-đái đa số do ở hư-hàn, ‘hoàngđại đa số là doTỳ-nhiệt, xích-đái hoặc xích-bạch đại đa số do Can-kinh bị Thấp-nhiệt. Nếu vị Tử-cung bị sưng có bướu mà ra nhiều Bạchđái thì việc tri-liệu nên lấy Tỳ chủ-chứng là chính rồi kiên trì thêm Bạch-đái.

b) TRI-LIỆU:

+ Chứng-trạng: Đái-hạ ra liền-miên không dứt ăn uống kém ngon, thân-thể mệt-mỏi, đau lưng, chân mềm, đầu chóang-váng.

– Bạch-đái: sắc trắng như nước mũi, khí có mùi hôi, mạch -hoãn, lười nhạt, rêu mỏng hoặc thô

– Hoàng-đái sắc vàng như trà đậm, khí tanh, mạch hoạt sác, rêu lưỡi vàng.

– Xích-đái: nước chảy ra màu đỏ, giống như huyết mà không phải huyết, lúc nhiều lúc ít, mạch huyền sác, lưỡi đỏ.

+ Phép trị: Bệnh này nên kiện Tỳ, bớt Thấp, thanh nhiệt, lợi Thấp làm chủ, kiêm điều-bổ Can và Thận. Nếu như có cả châm lẫn thuốc thì kết-quả sẽ lớn hơn.

+ xứ–phương và pháp châm-cứu: châm Khí-hải Tam An-giao đều 5 phận; châm Chương-môn, Đáimach, Bàng-quang, Tiếu-trường-du, đều 3 phần;

chân Đại-trường-du, Trung-hoãn đều 5 phần; châm Thận-du 3 phần; chân Túc Tan-lý 5 phần; châm  Tỳ-du 2 phần; cứu Thiên-xu, Thủy-phần đều 3  tráng, không châm; châm Âm Lăng-tuyền, Huyết thải đều 5 phần, Hành-gian, Can-đu đều 3 phân, nếu là Bạch-đái thì nên cứu, hoàng-đái và Xích đái đều châm tả, không cứu.

Bạch-đái nên thủ Túc Tam-lý, Tỳ-du, Thiên xu, Thủy phân. Hoàng-đái nên thủ Âm lăng tuyền, Huyết hải. Xích-đái nên thủ Hành gian, Can du.

c) CẤM KỴ:

It ăn Dầu Mỡ béo, đồ sống lạnh (vì nó trợ thấp), cấm ăn đồ cay ( vì nó thêm nhiệt), hạn chế giao hợp.

Theo:” Cẩm nang châm cứu thực hành” của Huỳnh Minh Đức

Bài trướcPhác đồ châm cứu chữa vô simh Nữ đang điều trị bằng Công nghệ Hỗ trợ Sinh sản (ART)
Bài tiếp theoCHÂM CỨU CHỮA SA DẠ CON THEO CỔ Y

BÌNH LUẬN

Nhập nội dung bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.