Độ nông sâu của kim châm

Mỗi huyệt có độ nông sâu riêng. Ngoài ra, mỗi chứng bệnh, mỗi thời điễm cũng phải châm sâu cạn khác nhau. Phải nắm vững nguyên tắc, vị trí huyệt để châm.

– Thiên ‘Chung Thỉ’ ghi: “Mạch thực, châm sâu để tiết bớt cái khí của nó, mạch hư, châm cạn làm cho tinh khí không ra được, để nuôi dưỡng mạch của nó, chỉ cho tà khí tiết ra” (LKhu 9, 85).

– Thiên Chung Thỉ’ ghi: “Bệnh lâu ngày, tà khí nhập vào sâu, châm trị bệnh này, nên châm sâu và lưu kim thật lâu, cứ cách vài ngày lại châm trở lại” (LKhu 9, 105).

– Thiên “Quan Châm” ghi: “Bệnh ở cạn mà châm vào sâu thì bên trong sẽ làm tổn thương đến phần cơ nhục đang lành và nơi bì phu sẽ bị nhọt (ung). Bệnh ở sâu mà châm cạn thì bệnh khí sẽ không được tả và ngược lại, nó sẽ gây thành nhiều mủ” (LKhu.7, 4-5).

– Thiên “Tứ Thời Khí” ghi: “Bệnh nặng châm sâu, bệnh nhẹ châm cạn” (LKhu. 19, 3).

Mỗi cơ thể phải có độ châm khác nhau, người béo mập độ châm phải sâu hơn người gầy yếu. Vì thế, khó có thể xác định được chính xác vị trí sâu cạn của huyệt. Các tài liệu nêu ra dưới đây thường được dùng làm tiêu chuẩn mẫu:

VỊ TRÍ

ĐỘ SÂU

Đỉnh đầu, mặt

4 – 8mm

Gáy

4mm -1cm

Lưng

5mm -1cm

Thắt lưng

1cm – 1, 5cm

Ngực

4mm – 1cm

Tai, cổ

4mm – 6mm

Vai, baœ vai

6mm – 1cm

Thượng vị, hạ vị

4mm – 1cm

Khuœy tay

6mm – 1mc

Cổ tay

4mm – 1cm

Đầu gối

1cm – 1, 5cm

Mông

1cm – 1, 5cm

Ngón tay, ngón chân

1cm – 1, 5cm

+ Trong thiên “Quan Châm” có nêu lên 1 phương pháp châm từ cạn (nông) đến sâu, gọi là “Tam Thích”, được mô tả như sau: “Trước hết châm cạn nhằm trục tà khí và để cho huyết khí đến; sau đó châm sâu vào cho đến vùng tà của âm khí ; sau cùng châm thật sâu vào nhằm làm cho các khí hiện ra” (LKhu.7, 49).

+ Thiên “Nghịch Thuận Phì Sấu” ghi: “Những người tráng niên, sức khoẻ, huyết khí đầy đu?, da thịt cứng rắn mà mắc phải bệnh thì nên châm sâu và lưu châm. Người béo mập cũng châm như vậy… Người gầy, da mỏng, sắc nhạt, thịt khô khan… nên châm sâu mà rút kim nhanh… Châm kẻ tráng sĩ chân cốt, thịt rắn chắc, khớp xương chặt… nên châm cạn mà rút kim nhanh… Trẻ nhỏ thịt còn mềm mai, huyết ít, khí yếu, nếu châm, nên dùng hào châm, châm cạn và rút kim nhanh” (LKhu. 38, 9-17).

Như vậy, mỗi đối tượng cần có cách châm riêng, ngoài ra, người châm còn phải biết linh hoạt, tùy theo từng vị trí, tình trạng của người bệnh mà đề ra cách châm cho thích hợp.

Bài trướcBổ tả trong châm cứu cổ điển
Bài tiếp theoThời điểm châm trong châm cứu

BÌNH LUẬN

Nhập nội dung bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.