ĐÔNG Y CHỮA BỆNH PHỤ KHOA:CHỮA ĐÀN BÀ KHÔNG CÓ CON

ĐÔNG Y CHỮA BỆNH PHỤ KHOA
ĐÔNG Y CHỮA BỆNH PHỤ KHOA

BỆNH NGUYÊN

Đàn bà sở dĩ không có con là vì 11 nguyên. Những nguyên-nhân ấy như sau:

1) Ngũ thương (a/ Của mình đau, b/ bị bệnh đau bụng hàn nhiệt, c/đau Ruột Non, d/ bộ máy sinh dục tê liệt, đ/ lệch dạ con)

2) Người béo quá.

3) Người làm võ qúa

4) Người khiếp-nhược yếu ớt quá

5) Người mắc chứngng hư hàn.

6) Người có báng-tích

7) Người có máu ghen tuông mạnh quá.

8) Người rức xương, sốt âm.

9) Hạ bộ hàn lãnh

10) Bung dưới đau tức.

11) Đi đại giắt, bụng đầy chưởng, chân phù nề.

 

BỆNH TRẠNG

1) Đàn bà không có con vì bệnh ngũ thương.

– Bệnh-trạng như thế này : cửa mình đau, đau” bụng hàn, đau bụng nhiệt, ruột non đau quặn, bộ máy sinh.đục tê dại, tử-cung lệch.

2) Tử-cung bị che-lấp.

– Đàn bà than-thề béo. quá mà không đẻ được, thì bệnh-trạng như thế này : thân-thể phì-nộn, không có bệnh-tật gì, đó là do thấp-thịnh, thể hư mà ra. Vì thấp-thịnh quá thì người béo bệu, có nhiều đàm – diên, bề ngoài coi như khỏe mạnh và bệnh mà thực ra bà trong thì hư. Nội-hư thi khí suy và thấp càng đọng lại, lẽ tất nhiên là khi thấy thấm nhập vào Bào-cung, vả chăng đàn bà phì-nộn quả thịt và mỡ có thể che lấp mất tử-cung, khiến nó không tiếp thụ tinh-khỉ của đàn ông dược. Da dĩ thủy-thấp thịnh quá thường làm cho tinh biến thành thủy, nên không thụ thai được.

3) Người gầy còm đa hỏa.

– Đàn bà vì gầy còm. mà không sinh nở được, thì bệnh trạng như thế này: người vốn yếu ớt, giao cảm với đàn ông 1 lần là sinh ra ốm đau nằm liệt một chỗ. Đó là do huyết suy mà ra vậy. Vì rằng người gầy thì hỏa nhiều, khi giao hợp lại mất linh-khí, thời thủy lại càng ít mà hỏa lại càng bốc mạnh. Vả người gầy gò thì dễ động hỏa, hỏa động lại dễ lan ra, đó là cái hư hóa, cho nên không sinh nở được

4) Tinh-thần khiếp-nhược. – Đàn bà không sinh nở vì khiếp-nhược, thì khí-khiếp lực-nhược ăn uống ít. Đó là do thận-khí bất túc. Con người ta hễ thiếu chất ngũ-cốc bổ dưỡng, thì tinh-thần tự nhiên dễ sinh ra khiếp nhược. Mà khí của tỳ, vị lại do thận sinh ra. Không có thủy-khí của thận thì vi khí không bốc lên được, không có hỏa khí của thận thì tỳ-khí không thể vận hóa được.

5) Đới mạnh vô lực.

– Không sinh nở do chứng hư-hàn, thì người ăn uống không tiêu, bụng đầy ì ạch, hay nôn và đau bụng đi ngoài.Đó là do tỳ-vị hư-lãnh. – Vi-thổ không có tâm-hỏa không hóa, hỏa ở Tâm-Thận đều suy thì tỳ vị thổ mất sinh khí, không thể tiêu hóa được các thức ăn uống thì lấy đâu tân dịch để nuôi bào-cung, thế là tỳ vị không khỏe thì đới-mạch cũng vô lưc, dầu có thụ thai cũng tiền sản (đẻ non).

6) Không tiếp thu được tinh khi.

– Vì có bảng tích thì lưng đau, bụng đau, bụng đầy ách, đứng lâu ngồi lâu không được. Bảng tích che lấp mắt Bì0-cung, bào cung không tiếp thu được tinh khi, cho nên không để được.

7)Vì ghen tuông quá.

– Ghen tuông quá , can-khí uất-kết. Can-khí uất-kết thì con được thư thái, không những không phối hợp với tâm thận, mà lại làm hại lây đến tỳ, kết quả lưng đau, mỏi mệt, khí của Nhâm mạch bị và cửa Bào cung cũng hại theo.

8) Rức Xương, sốt ấm.

– Khắp minh sốt nóng. miệng xe lưỡi khô, Hohắng nhô ra nước miếng, xương cốt đau rửc như dần. Đó là do hư-hỏa bố lên, và trong xương tủy bị nhiệt quá.

Bào-cung trên thông với Tâm, dưới thông với Thận.Cốt-tủy do thận sinh, nay tủy trong xương bị nhiệt quá thi trong xương hư-không, chỉ còn lại khí nóng của hỏa, cho nên không thụ thai được.

9) Hạ-bộ bản lãnh.

– Người hạ bộ âm lãnh thì sợ gió máy, lạnh rét, là vì chân hỏa thiếu. Không có hỏa thi ấm nóng làm sao? Khi giao cảm, cửa minh giá lạnh như tiền. Không thu thai được.

10) Bụng dưới ỳ-ạch.

– Người đàn bà thấy bụng dưới ì-ạch khó chịu là do đới mạch đi gấp quá, Đới-mạch nên đi từ tứ chứ đi gấp là sinh bệnh.

11) Bụng chướng, chân phù nề.

– Do khí của – Bàng quang không đủ mà sinh ra. Cái khi Thủythấp ở trong người ta dồn vào Bàng-Quang. Quang phải nhờ đến thận-khí thì mới hóa thủy thấp tống ra ngoài. Thận-khi không đủ, Bàngquang không vận hóa được nên thủy-thấp thấm vào Bào-Cung.

BIỆN CHỨNG

Mười một nguyên-nhân trên, do nguyên-nhân nào mà không sinh nở cũng vậy, cũng cần phải chữa ngay. Nếu không chữa đề lâu ngày bệnh càng nặng và sẽ thành cố bệnh không mong gì có con sau này.

PHÉP CHỮA

1/ Cửa mình đau và nóng này khó chịu nên dung bài ” Đại bồ âm hoàn ” (8) ; tâm tỳ-khi bị thương, đêm ngủ không yên dùng bài “Quy tỳ thang” (9). Đau bụng hàn nên dùng bài “Ngô Thù du thang” (10) đau bụng nhiệt nên dùng bài “Tri bá thanh nhiệt thang ” (11). Ruột non quán đau dung bài “Tứ nghịch tán” (12). Bộ máy sinh dục tê dại, nên dùng bài “Cam mạch tại táo thang” (13). Tử-cung bị lệch, thì nên dùng thủ thuật nắn lại cho ngay.

2 /Người béo tử cung bị che lấp. nên dùng bài “Gia vị bổ trung ích khi thang” (14). Ngoài ra các bài ” Việt cúc hoàn” (15) Nhị tiên thang (16) đều có thể dùng.

3/ Người gây đa hỏa cần phải bổ thận, bình can. Thủy vượng thì huyết vượng, mà huyết vượng thì hỏa giáng. Nên dùng bài “Dưỡng vinh chủng ngọc thang ” (17).

4/ Người khiếp nhược, ăn uống không được, do Thận-khí bất túc, nên dùng bài ” Thăng đề thang ” (18) đề bồ thủy, hỏa của thận. Nếu tinh khi bắt-túc thì nên dùng bài “Tử-quân lục-vị gia Hương phụ Ngải-diệp” (19).

5/ Người hư-hàn, vì Đới-mạch vỏ lực lên bổ Mệnh- Môn-hỏa của Thận và Hỏa của Tâm-bào-lạc, đề làm ôn chân hóa của Tỳ Kinh, Vỵ-kinh. Dùng bài ” Ôn Thổ Dục lân thang ” (20).

6/ Người có báng-tich không tiếp thu được tinh khi, phép chữa nên chữa cho tiêu báng-tích đi đã rồi sau mới bổ dưỡng sức khỏe. Dùng bài “Thắng đới thang ” (21).

7) Người ghen tuông quá độ, can-khí uất-kết làm khi của Nhậm-mạch bị tắc và lấp mất cả Bào-môn, phép chữa nên giải uất-khí của Can, đề thông các khí của tam-kinh, thời khi huyết điều mà tính-tình cũng hòa. Dùng bài “Khí tuất chủng ngọc tang” (22). Nếu có ra khí hư, thi nên dùng “Gia vị Hương phụ hoàn” (23).

8) Người đau rức gân cốt, sốt âm ban đêm. phép chữa cần phải đại bổ Thận Âm, thì sốt tự khỏi. Nên dùng bài ” Thanh cố tư thận thang “(21).

9) Người hạ-bộ ảm lãnh, phép chữa nên bổ Hỏa của Tâm và của Thận, dùng thuốc nên kiêng các vị nóng này. Nên dùng bài “Ôn bổ ẩm” (25).Nếu hàn quá,nên dùng bài “Tần quế hoàn” (26).

(10) Bụng dưới đau và đầy ì-ach, phép chữa nền đại-bổ khí-huyết của Tỳ, Vị. thì tự khắc bệnh khỏi. Dùng bài “Khoan đới thang” (27).

11) Bụng đau, chân phủ, phép chữa nên làm cho Thận-Thủy mạnh lên để hóa thấp của Bào-cung làm cho Thận-Hỏa vượng để tiêu Thủy của BàngQuang. Dùng bài ” Hóa thủy chủng tử thang ” (28).

ĐIỀU DƯỠNG

1) Tinh – tinh nên khoan hòa vui vẻ. Dù Có một nguyên – nhân nào trong 11 nguyên-nhân trên, mà không có con, người đàn bà cũng cần giữ cho tinh-tinh luôn luôn khoan-hòa vui vẻ. Khoan hòa vui vẻ khí-huyết không bị uất – kết, người sẽ dễ chịu thư – thải, khí – huyết điều – hòa, kinh mạch không mắc bệnh-tật gì, như vậy tự nhiên là dễ thu-thai.

2) Không nên ăn những thắc mỡ màng, sào nứơng.

3) Nên bổ khí huyết, khí huyết có xung-mãn, kiện vượng, thì mới dễ thụ-hai.

 

ĐÔNG Y CHỮA BỆNH PHỤ KHOA:CHỮA ĐÀN BÀ KHÔNG CÓ CON
ĐÔNG Y CHỮA BỆNH PHỤ KHOA:CHỮA ĐÀN BÀ KHÔNG CÓ CON

Theo:”Đông Y thực hàng Phụ Kkoa” của Le Cường 1952.

Bài trướcĐÔNG Y CHỮA BỆNH NAM KHOA: VÔ SINH NAM
Bài tiếp theoĐÔNG Y CHỮA BỆNH PHỤ KHOA: CÁC CHỨNG THAI TIỀN

BÌNH LUẬN

Nhập nội dung bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.