Rối Loạn Thần Kinh Thực Vật

Rối loạn thần kinh thực vật/ Rối loạn thần kinh tim/ suy nhược thần kinh

THEO TÂY Y

Hệ thần kinh thực vật là hệ thần kinh tự động. Nó có tác dụng điều khiển hoạt động của các cơ quan trong cơ thể một cách chủ động, không phụ thuộc vào sự chỉ huy của não bộ. chức năng của hệ thần kinh thực vật là điều hoà các quá trình chuyển hoá vật chất, điều hoà hoạt động của cơ quan nội tạng cũng như hệ thần kinh trung ương. Trong điều hoà chức năng của các cơ quan thường có sự tham gia của cả hai hệ thần kinh giao cảm và phó giao cảm.

Rối loạn thần kinh thực vật là sự mất cân bằng của 2 hệ thống thần kinh giao cảm và phó giao cảm.Hai hệ thống này về cơ bản gần như trái ngược nhau:

Tác động của hệ thần kinh giao cảm rất đa dạng trên hệ tim mạch (làm co mạch, tăng huyết áp mạch nhanh kích thích tiết mồ hôi); trên hệ hô hấp (làm nhịp thở nhanh, nông). Vì vậy khi cường chức năng giao cảm sẽ gây hồi hộp, trống ngực mạnh, tăng huyết áp, vã mồ hôi, giảm co bóp và tiết dịch đối với một số cơ quan tiêu hóa như dạ dày, túi mật, ruột, dịch vị dạ dày…; co thắt cơ trơn phế quản… bốc nóng ở mặt, vã mồ hôi ở lòng bàn chân, bàn tay; nặng hơn có thể tức ngực, khó thở… tim hồi hộp thở gấp, luôn luôn ra mồ hôi. mồ hôi ra đầm đìa, sợ gió, môi tím tái, sắc mặt trắng bệch, chân tay lạnh ngắt.

Tác dụng của hệ phó giao cảm thì ngược lại, khi cường chức năng phó giao cảm sẽ làm chậm nhịp tim, tăng co thắt và tăng tiết dịch vị…

Ví dụ: giao cảm làm giãn đồng tử thì phó giao cảm làm co, giao cảm làm giãn mạch vành (beta 2) và co (alpha) thì phó giao cảm làm giãn, giao cảm làm tăng nhịp tim thì phó giao cảm làm giảm nhịp tim, giao cảm làm giảm nhu động và trương lực lòng ruột thì phó giao cảm làm tăng nhu động và trương lực…

Tác dụng của hệ thần kinh thực vật đối với nội tạng

Bình thường có sự cân bằng giữa hai hệ thống giao cảm hoặc phó giao cảm duy trì các chức năng bình thường của cơ thể. ở một cơ thể khỏe mạnh, hoạt động của hệ thần kinh thực vật điều hòa và cân bằng giữa hai hệ thống giao cảm và hệ thống phó giao cảm. Khi một trong hai hệ thống bị rối loạn sẽ đưa đến hội chứng rối loạn thần kinh thực vật.

Mặc dù có các trung tâm điều hoà hoạt động của thần kinh thực vật nhưng trong trường hợp mất cân bằng thì không điều hoà được hệ thống này và đưa đến các triệu chứng của rối loạn. Thường gặp triệu chứng ở hệ tim mạch và bệnh nhân được chẩn đoán là rối loạn thần kinh tim. Thường bệnh nhân có nhịp tim nhanh, thậm chí co thắt cả mạch vành làm cho bệnh nhân đau ngực, nhịp tim nhanh làm cho bệnh nhân cảm giác hồi hộp, đánh trống ngực, đôi khi cảm giác hẫng người. Đặc biệt, các cơn rối loạn này không có quy luật gì cả và cơn có thể kết thúc đột ngột làm cho người ngoài tưởng rằng bệnh nhân giả bộ.

Đối với rối loạn thần kinh thực vật mà phó giao cảm chiếm ưu thế thì người bệnh bị co thắt phế quản làm khó thở. Nhiều người cảm thấy triệu chứng xảy ra bất thường quá giống như giả bộ nên có thái độ trầm cảm và nghĩ rằng mình bị rối loạn tâm thần nên đến chuyên khoa tâm thần. Bệnh nhân có thể kèm theo rối loạn kinh nguyệt, rụng tóc, da khô, hư móng, giảm hứng thú tình dục, mất ngủ…

Bệnh nhân khi bị hội chứng này thường xuất hiện những triệu chứng cơ năng rất mơ hồ như: thường xuyên chóng mặt, mệt mỏi, tim hồi hộp, lo sợ có thể có khó ngủ nữa. Việc chẩn đoán hội chứng này vừa dễ mà cũng vừa khó vì bệnh nhân không hề có một tổn thương thực thể nào. Các xét nghiệm đều trong giới hạn bình thường, có thể lầm lẫn với các triệu chứng của tình trạng trầm cảm, và có khi do chính thầy thuốc áp đặt một khi không tìm ra một chẩn đoán nào hợp lý cho bệnh nhân.

Việc điều trị cũng rất khó khăn và kéo dài. Tuy bệnh không gây tử vong nhưng nó làm giảm đi rất nhiều chất lượng cuộc sống, chỉ gây ra khó chịu cho người bệnh và kéo dài làm thay đổi tâm lý. Do tính chất không nguy hiểm nên người bệnh thường không được quan tâm đúng mức, bị từ chối điều trị và càng làm cho bệnh nhân lo lắng. Để điều trị, bệnh nhân được dùng các thuốc điều trị triệu chứng gây khó chịu cho bệnh nhân. Hiện đối với thể bệnh bị trầm cảm người ta dùng thuốc chống trầm cảm, đối với rối loạn nhịp tim nhanh thì dùng thuốc kiểm soát nhịp tim và nói chung là điều trị triệu chứng. Bệnh nhân sau một thời gian bị bệnh thường rơi vào tình trạng trầm uất, lo lắng không tin vào cuộc sống và không tin vào y học.

THEO ĐÔNG Y

Hệ thần kinh thực vật là một bộ phận của hệ thần kinh trung ương. Gọi là thần kinh thực vật vì nó điều hoà các chức năng của cơ thể động vật giống như ở thực vật tức không theo ý muốn chủ quan của cơ thể. Thần kinh thực vật tham gia điều chỉnh các cơ quan hô hấp, tuần hoàn, tiêu hoá, bài tiết, chuyển hoá… cho nên trong đông y ngoài thuật ngữ chẩn đoán bệnh rối loạn thần kinh thực vật còn có những thuật ngữ khác: rối loạn thần kinh tim, rối loạn thần kinh giao cảm, rối loạn phó giao cảm, suy nhược thần kinh …

Chứng Rối loạn thần kinh thực vật trong đông y còn gọi là rối loạn chức năng là do hoạt động thần kinh cao cấp quá mức căng thẳng, kích thích ngoài ý muốn, hoặc sau khi bị bệnh nặng, bệnh lâu dài, thể chất hư nhược, đến nỗi công năng tạng phụ, âm dương, khí huyết đều mất điều hòa mà dẫn đến rối loạn công năng.

Đông y thường thì dựa vào triệu chứng bệnh, tìm ra gốc bệnh, rồi từ đó đề ra phương pháp chữa và bài thuốc phù hợp.

Trên thực tế lâm sàng chữa bệnh thì tôi thường gặp các thể, các dạng bệnh như sau:

CHẨN ĐOÁN

1. Thường có kích thích tinh thần hoặc tinh thần căng thẳng thời gian dài, lo nghĩ, hoạt động thần kinh khẩn trương quá độ là nhân tố gợi phát.

2. Bệnh này triệu chứng biểu hiện không như nhau, có người cảm thấy tim đập nhanh, cảm thấy như tim ngừng đập, có thể kèm theo mệt mỏi, hồi hộp, tim thổn thức, tinh thần bất an, sợ hãi, chóng mặt, có thể có đau đầu, tai ù, mắt hoa buồn nôn, nôn, thậm chí ngất, di tinh, liệt dương, cho tới một số chứng trạng không hạn chế cụ thể.

Phân loại Thể bệnh: Tùy mức độ bệnh mà có thể có các biểu hiện ít nhiều

I. ÂM HƯ HỎA VƯỢNG

Hay gặp ở người cao huyết áp, rối loạn tiền mãn kinh: hoa mắt, chóng mặt, nhức đầu, có thể có ù tai, Tim thổn thức, hồi hộp tay chân buồn bã, trong ngực nóng bứt rứt, người hay bừng nóng, mặt đỏ, hai gò má có thể đỏ, mệt nhiều về buổi chiều, lòng bàn tay chân nóng, đái nước tiểu vàng. miệng khô, họng khô, có thể táo bón, hồi hộp, mất ngủ, nhiều mộng, có thể có cảm giác vướng trong họng, khạc không ra nuốt không vào. ( có thể có viêm mũi mãn). Có thể có cơn đau vùng ngực từng lúc, cơn đau đầu, váng đầu, bứt rứt, dễ cáu gắt… ( Tùy mức độ bệnh mà có thể có các triệu chứng trên)

Phân tích: Do thận suy yếu (chức năng thận), Tâm hỏa vượng nên hồi hộp, buồn bực, ít ngủ, có thể mỏi lưng. Bệnh nhiệt lâu ngày làm tổn thương chân âm, nên âm hư hỏa vượng quấy nhiễu Tâm thần sinh ra hồi hộp mất ngủ, Tâm hỏa bốc lên nên ù tai, choáng đầu, hoa mắt, miệng khô, lưỡi đỏ, trong người nóng bức bối. ( Giải thích đơn giản cho dễ hiểu: Thận chủ thủy: nước, Tâm là hỏa: lửa. Thận yếu -> nước không giập được lửa -> lửa bùng lên gây các triệu chứng trên)

II. TÂM THẬN CÙNG HƯ

+ Tâm dương bất túc: gồm Tâm khí hư và Tâm dương hư. Biểu hiện chung: hồi hộp, đoạn khí, hụt hơi ( khi hoạt động nặng thêm như leo cầu thang, làm việc gắng sức, chạy bộ …), tức thở, tự ra mồ hôi, mồ hôi ra nhiều, mệt mỏi, hay thở dài, sắc mặt trắng bợt, mình hàn, tay chân lạnh, sợ lạnh, sợ gió, ngại tắm, khó chịu vùng tim, đau tim

+ Kèm thận hư: Đầu xoay tai ù, di tinh, buốt thắt lưng, phiền thao mất ngủ, nhiều mộng hay quên, có thể có họng khô, nước tiểu vàng, không mộng mà di tinh, Hoặc: hoạt tinh, dương suy xuất tinh sớm, sợ lạnh. hồi hộp hay thổn thức, chân tay lạnh, tiểu nhiều, nước tiểu trong, lạnh và sợ gió, ngại tắm, ra mồ hôi, sắc mặt trắng bệch ….

Phân tích: Do dương khí suy yếu, tâm khí không đủ sức thôi động huyết mạch, thủy khí dâng lên gây hồi hộp, khó thở, tim đập nhanh. Phế khí hư yếu nên ra mồ hôi, sợ gió, sợ lạnh. Tâm dương hư nên thấy hiện tượng Hàn: nên người và chân tay lạnh. Bệnh có thể dẫn đến dương khí đại hư sẽ thấy nhiều mồ hôi, tứ chi lạnh, hồi hộp, ảnh hưởng tới thần chí, có thể đưa đến bất tỉnh.

Giải thích đơn giản cho dễ hiểu: Bì mao ( da, chân lông) là phần ngoài cùng của cơ thể, có tác dụng bảo vệ cơ thể chống ngoại tà (gió, lạnh) xâm nhập. Mà Phế chủ bì mao nên khi phế khí kém sẽ dẫn đến thở ngắn, thở gấp, người mệt vô lực, tự ra mồ hôi, sắc mặt trắng bệch, có lúc sợ lạnh, gai rét, dễ bị Cảm mạo. Phế -> Tâm.

III. TÂM TỲ LƯỠNG HƯ( tâm huyết hư)

Hay gặp ở người thiếu máu, suy nhược cơ thể ( do bệnh tật, sinh đẻ, mổ đẻ, dinh dưỡng kém…) choáng đầu hoa mắt, chóng mặt, hồi hộp, Đêm ngủ chập chờn không sâu, dễ tỉnh, tim thổn thức đập nhanh, sắc mặt không tươi, mệt mỏi không có sức, ăn uống kém không biết ngon. Có thể mất ngủ nhiều, trằn trọc, hay mê.

Phân tích: do Tỳ hư mà Tỳ chủ chức năng vận hóa đồ ăn, Tỳ hư nên vận hóa không tốt nên ăn không ngon miệng, chán ăn, nguồn dinh dưỡng thiếu, không hấp thu được, nên biểu hiện mệt mỏi. Tỳ chủ cơ nhục nên cơ nhục mền nhão, chân tay rời rạc. Tỳ hư không sinh được huyết, dẫn đến Huyết không nuôi dưỡng được Tâm, vì vậy gây mất ngủ, mơ nhiều nhanh tỉnh, hay quên.Tâm chủ huyết mạch, vinh nhuận lên mặt, huyết hư không dưỡng được Tâm gây nên Tâm quý (hồi hộp, tim đập nhanh, thổn thức, choáng váng, đầu mắt hoa, mặt nhợt nhạt, mất ngủ…). Huyết hư không đủ thông ra tay chân nên chân tay rời rạc, mệt mỏi. Tỳ -> huyết thiếu => Tâm

IV. TÂM HUYẾT Ứ TRỆ

Tim hồi hộp, đau tim (đau nhói hoặc đau râm ran vùng trước tim hay sau tim) lúc đau lúc không. Khi bệnh nghiêm trọng thì đau nhiều, móng tay xanh tím, ra mồ hôi, tứ chi lạnh. Do huyết ứ trệ nên toàn thân lưu thông máu kém làm tim hồi hộp, tim đau, do vậy mà thiếu máu ở mao mạch, toàn thân lưu thông máu kém. Tâm dương bất chấn không đủ làm nóng chi nên chân tay lạnh,dương khí không giữ chắc ngoài biểu nên làm cho ra mồ hôi nhiều. chứng này thường gặp ở bệnh xơ vữa động mạch vành và co cứng cơ tim.

V. TÂM CAN KHÍ UẤT

Hay gặp ở phụ nữ, làm việc căng thẳng, Tinh thần uất ức, hay nghi hay nghĩ nhiều, hay cáu gắt tức giận vô cớ, hoặc ngực buồn bằn, sườn đau, bụng trướng, ợ hơi, ăn ít, hay thở dài …. Có thể có mắt đỏ, miệng khô mà đắng, đại tiện bí. Hoặc trong họng cảm thấy như có vật cứng vướng nuốt không xuống khạc không ra ( kiểm tra họng không có viêm họng, không có tổn thương thực thể)

Bài trướcTrị ho cho trẻ em bằng thuốc nam
Bài tiếp theoChữa Viêm tắc động mạch bằng y học cổ truyền

BÌNH LUẬN

Nhập nội dung bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.