HỘI CHỨNG DOWN

Rối loạn nhiễm sắc thể thường gặp nhất (1/800 trẻ sinh ra ở Mỹ) là rối loạn liên quan với hội chứng Down. Nguyên nhân chủ yếu của hội chứng Down là do sự không phân tách trong quá trình phát triển của trứng, cặp nhiễm sắc thể 21 không có khả năng phân ly khi phân bào giảm nhiễm. Đó là trường hợp ngẫu nhiên. Nguyên nhân khác (3 – 4% số trường hợp) là có sự chuyển đoạn nhiễm sắc thể kiểu Roberts, ở đó nhiễm sắc thể 21 gắn với một nhiễm sắc thể khác. Mặc dù số lượng vật chất di truyền là bình thường nhưng số nhiễm sắc thể lại là 45 chứ không phải 46. Đứa trẻ có bố hoặc mẹ mắc rối loạn chuyển đoạn nhiễm sắc thể kiểu Roberts có 25% khả năng mắc hội chứng Down kiểu nhân. Tất cả trẻ mới sinh có hội chứng Down cần phải được xem xét về kiểu nhân để phát hiện rối loạn này. Một nguyên nhân khác của hội chứng Down (1 – 2% số trường hợp) là sự không phân tách xảy ra sau khi thụ thai và dẫn đến di truyền thể hình khảm, ở đó một số tế bào có 3 nhiễm sắc thể 21 và các tế bào khác bình thường. Một kiểu nhân bình thường khởi đầu ở một đứa trẻ mắc hội chứng Down cổ điển có thể được giải thích bằng hiện tượng biến loạn nhiễm sắc thể thể hình khảm và cần kiểm tra các mô khác để phân tích nhiễm sắc thể.

Bảng 16.1. Những nguy cơ liên quan tới sinh đẻ

Tình trạng Nguy cơ/số trẻ sinh ra
Dị dạng bẩm sinh được phát hiện lúc sinh 1/30
Dị tật về tâm thần hoặc thể chất nghiêm trọng 1/50
Sẩy thai tự nhiên 1/8
Thai chết lưu (Bắc Mỹ) 1/125
Chết chu sinh 1/150
Chết sau đẻ 1 tuần (Bắc Mỹ) 1/200

Được phép trích có sửa đổi của Harper

Hội chứng Down có thể được chẩn đoán trong thời kỳ trước sinh. Các xét nghiệm xác định là thủ thuật chọc màng ối qua bụng và mẫu nhung mao màng đệm. Những chỉ dẫn cho mỗi phương pháp là như sau (2-4).

  1. Sự chuyển đoạn nhiễm sắc thể kiểu Roberts và đẻ non ở trẻ mắc hội chứng Down: Đối với những phụ nữ dưới 30 tuổi, nguy cơ hội chứng Down lặp lại là khoảng 1%. Đối với những phụ nữ trên 30 tuổi, nguy cơ tương đương theo độ tuổi. Nguy cơ lặp lại cao ở bệnh nhân có chuyển đoạn nhiễm sắc thể kiểu
  2. Tuổi mẹ tăng: Những nguy cơ của hội chứng Down và các rối loạn nhiễm sắc thể khác theo tuổi của mẹ được liệt kê ở bảng 16.2. Việc chẩn đoán trước khi sinh nên làm đối với những phụ nữ trên 35 tuổi, thực tế đây là nhóm lớn nhất cần được làm xét nghiệm di truyền trước khi sinh. Khoảng 25% các trường hợp sinh ra mắc hội chứng Down có thể được phát hiện bằng cách sử dụng tuổi mẹ như là một tiêu chuẩn.
  3. Nồng độ a-fetoprotein huyết thanh của người mẹ thấp: Khi xét nghiệm các khuyết tật ống thần kinh, mặt khác nó còn cho biết những phụ nữ mang thai có nguy cơ thai nhi mắc hội chứng Bởi vì ở thai nhi mắc hội chứng Down có gan chưa hoàn chỉnh nên nồng độ a-fetoprotein thấp hơn bình thường. Một điều nữa là 20% thai nhi mắc hội chứng Down có thể được phát hiện bằng phương pháp này (tỷ lệ của phương pháp chọc dò màng 01 là 5%). Xét nghiệm này cũng giúp cho những bệnh nhân trên 35 tuổi trong nhóm nguy cơ thấp hơn.
  4. Xét nghiệm ba chất: Nguy cơ nữa của hội chứng Down có thể xác định được bằng cách đo nồng độ a-fetoprotein, estrogen, kích dục tố rau thai (human chorionic gonadotropin – hCG) trong huyết thanh. Nồng độ hCG huyết thanh cao hơn còn các estriol tự do thì thấp hơn ở những phụ nữ mang thai mà thai nhi mắc hội chứng Theo các số liệu đã báo cáo thì tỷ lệ phát hiện của xét nghiệm này là 60%, còn tỷ lệ của phương pháp chọc dò màng ối là 5%.

Tất cả các xét nghiệm sinh hóa được sử dụng để sàng lọc có thể cho kết quả dương tính giả. Điều quan trọng là phải khẳng định được tuổi thai bằng phương pháp siêu âm trước khi tiến hành thủ thuật chọc dò màng ối để tìm các chất bất thường trong huyết thanh. Nói chung, không nên dùng cách sàng lọc thông thường bằng các chất đánh dấu đa sinh hóa. Không một phương pháp sàng lọc nào có thể đảm bảo rằng đứa trẻ không mắc hội chứng Down. Phương pháp chẩn đoán xác định là chọc dò màng ối và mẫu nhung mao màng đệm. Ưu điểm của phương pháp mẫu nhung mao màng đệm là phát hiện được hội chứng Down sớm hơn nên có thể tiến hành nạo phá thai sớm hơn trong thời kỳ mang thai. Nhược điểm của phương pháp này là nó không giúp cho việc phát hiện được các khuyết tật ống thần kinh.

Bảng 16.2. Nguy cơ của hội chứng Down và các biến loạn
nhiễm sắc thể khác theo tuôi mẹ

Tuổi (năm) Nguy cơ mắc hội chứng Down Nguy cơ toàn bộ có bất thường nhiễm sắc thể có ý nghĩa lâm sàng
20 1/1667 1/526
21 1/1667 1/526
22 1/1429 1/500
23 1/1429 1/500
24 1/1250 1/476
25 1/1250 1/476
26 1/1176 1/476
27 1/1111 1/455
28 1/1053 1/435
29 1/1000 1/417
30 1/952 1/385
31 1/909 1/385
32 1/769 1/322
33 1/602 1/286
34 1/485 1/238
35 1/378 1/192
36 1/289 1/156
37 1/224 1/127
38 1/173 1/102
39 1/136 1/83
40 1/106 1/66
41 1/82 1/53
42 1/63 1/42
43 1/49 1/33
44 1/38 1/26
45 1/30 1/21

Khi tư vấn cho các bệnh nhân, bác sĩ gia đình nên nói về chi phí của các phương pháp, các rủi ro, và các mối quan tâm của các bố mẹ. Trong khi thảo luận về trẻ mắc hội chứng Down những điểm quan trọng cần được nêu ra là 33% trường hợp bị những dị tật về tim, sự xuất hiện của các tình trạng bẩm sinh khác, sự phát triển trí tuệ chỉ đến lớp 3, đến lớp 9, và khả năng hầu hết trẻ em có thể rời gia đình và sống một cách độc khi trưởng thành. Tuy các phụ nữ được khuyên nếu đi nạo phá thai thì nên làm các xét nghiệm về hội chứng Down nhưng để được chấp nhận sử dụng các xét nghiệm xác định sự mang thai có nguy cơ cao thì lại đòi hỏi phải làm ở trung tâm y tế cấp ba.

Lúc sinh, một đứa trẻ có hội chứng Down được xác định dựa trên cơ sở những đặc điểm qua khám cơ thể trẻ như: giảm trương lực, đặc điểm sọ mặt của tật đầu ngắn, khe mí mắt nghiêng, sống mũi rộng, lưỡi đầy, tai thấp. Những đứa trẻ có thể có nốt Brushfield, các ngón tay to ngắn, có nếp gấp đơn ở tay (còn gọi là nếp ngang bàn tay, gặp khoảng 30% những trẻ mắc hội chứng Down, và khoảng 5% ở những trẻ bình thường), và có khoảng cách rộng giữa hai ngón chân đầu tiên. Khoảng 1/3 số trẻ có thể phát hiện thấy bệnh tim bẩm sinh, nguy cơ bị tịt tá tràng và rò khí – thực quản tăng. Điều quan trọng là phát hiện được các bệnh tim bẩm sinh trong giai đoạn mới sinh, cho nên bắt buộc phải làm điện tâm đồ. Chứng tăng áp lực động mạch phổi không thể hồi phục có thể tiến triển lúc hai tháng tuổi mà không có dấu hiệu nào có thể nhận biết được ở trẻ. Nên tiến hành khám mắt để phát hiện bệnh đục thể thủy tinh, các phương pháp đo thính lực, các xét nghiệm tuyến giáp, và đếm tế bào máu toàn phần đối với phản ứng dạng bệnh bạch cầu.

Một biện pháp hiệu quả được mô tả là thông báo cho bố mẹ biết rằng đứa con của họ mắc hội chứng Down. Nguyên tắc cơ bản là nói cho cả hai bố mẹ càng sớm càng tốt, với sự có mặt của đứa trẻ, trong một căn phòng riêng yên tĩnh. Đứa trẻ được nhắc đến bằng tên, và một người đáng tin cậy, có quan điểm cân bằng sẽ là người truyền đạt các thông tin. Bố mẹ của đứa trẻ được người này đưa cho số điện thoại nên họ có thể có thêm những câu hỏi, và gia đình có thời gian để tiếp nhận các thông tin. Những gợi ý khác là cung cấp thông tin về Hội những người hội chứng Down Quốc gia (1-800-221-4602) và tổ chức cho những bố mẹ khác có con mắc hội chứng Down tới thăm cặp bố mẹ mới này.

Trong 5 năm đầu tiên của cuộc đời, điều quan trọng là phải kiểm tra chứng giảm năng tuyến giáp hàng năm, đo thị lực, thính lực định kỳ 6 tháng đến 1 năm một lần, và cung cấp sự giáo dục đặc biệt (xem Chương 17). Tất cả trẻ em mắc hội chứng Down nên sống với gia đình, và phần lớn chúng có thể được vào trường mẫu giáo. Điều quan trọng là phải sử dụng các biện pháp chuẩn đốỉ với hội chứng Down để theo dõi sự tăng trưởng và phát triển. Một đứa trẻ mắc hội chứng Down thường có vấn đề vê học nói ở trường và thường học tốt hơn bằng nhìn. Hiệp hội Hội chứng Down Quốc gia có sẵn các nguồn lực để tăng cường giáo dục. Trước khi những đứa trẻ này tham gia chơi các môn thể thao nhất thiết phải đánh giá tình trạng thiếu ổn định của các đốt sôrig cổ qua phim X quang vùng cổ. Cũng cần đánh giá cả những đứa trẻ có đặt ống khí quản. Còn đang bàn cãi về cần phim chụp X quang thường xuyên như thế nào. Khổng có đứa trẻ nào bị chứng liệt trong các kỳ Olympic đặc biệt, và 90% số trẻ bị liệt tiến triển là có những triệu chứng biểu lộ tình trạng thiếu ổn định trong tháng trước.

Phần lớn trẻ em mắc hội chứng Down có thể rời gia đình, làm việc, và tạo lập các môi quan hệ. Việc tư vấn cho họ về các biện pháp tránh thai là thích đáng. Bệnh Alzheimer xảy ra ở 25% người lớn có hội chứng Down.

Hội chứng Turner

Hội chứng Turner có tỷ lệ mới mắc là khoảng 1/2000 trẻ sinh ra. Hội chứng này liên quan đến sự sai lạc trên một nhiễm sắc thể X, dưới dạng là thiếu một nhiễm sắc thể X (60% các trường hợp), bất thường cấu trúc của nhiễm sắc thể X (20% các trường hợp), hoặc thể khảm liên quan đến nhiễm sắc thể X ở ít nhất một dòng tế bào (20% các trường hợp). Sau đây là những điểm quan trọng về những bệnh nhân mắc hội chứng Turner.

  1. Những tổn thương tim: Nhiều bệnh nhân có những tổn thương tim trái, như ống sau và van hai lá động mạch chủ có hoặc không bị hẹp. Cùng lúc động mạch chủ lên có thể bị căng, dẫn đến các thương tổn, có thể bị giãn, đứt, và tiền vữa xơ động mạch. Điện tâm đồ được khuyên làm trong thời kỳ trẻ vị thành niên và trong giai đoạn 10 năm tiếp theo. Tình trạng của van hai lá là chỉ định cho điều trị dự phòng bệnh viêm màng trong tim nhiễm khuẩn bán cấp.
  2. Những bất thường về xương: Chứng loãng xương thường gặp ở hội chứng Turner, nên việc bổ sung thêm calci là rất quan trọng. Liệu pháp điều trị được chỉ định phụ thuộc vào mật độ của xương. Các đặc điểm về xương khác bao gồm tật hàm nhỏ, xương đốt bàn tay ngắn, tật đầu gối khuỳnh vào, chứng vẹo cột sống, hình dáng lùn, chắc.
  3. Tuổi dậy thì: Vào lúc đứa trẻ ra đời noãn bào bị thoái hóa trong phần lớn các trường hợp mắc hội chứng Giữa độ tuổi 12 và 15, tuổi được bổ sung estrogen, và sau 12 tháng progesteron được bổ sung thêm cho chế độ trị liệu. Có thai xảy ra ở những bệnh nhân có chu kỳ kinh nguyệt tự nhiên. Những bệnh nhân này thường bị kiểu thể hình khảm. Tỷ lệ có thai là 50% đến 60% đã được báo cáo từ các trung tâm y tế chuyên về thụ tinh trong ống nghiệm, có sử dụng cả của chị em và người cho giấu tên.
  4. Tầm vóc: Suy giảm sức tăng trưởng xảy ra ở hầu hết các bệnh nhân có hội chứng Sự suy giảm sức tăng trưởng khi còn ở trong tử cung thường ở mức độ nhẹ, chiều cao tăng lên một cách bình thường cho đến 3 tuổi, tốc độ tăng trưởng vẫn phát triển cho đến năm 14 tuổi, và thời kỳ tăng trưởng khi trưởng thành thì dài. Tầm vóc thấp đáp ứng với điều trị bằng hormon tăng trưởng.
  5. Các vấn đề thường gặp khác: Không dung nạp glucose, chứng giảm năng tuyến giáp, dị dạng đường tiết niệu bẩm sinh thường gặp hơn ở những bệnh nhân có hội chứng Turner (35-70%) so với trong quần thể chung. Chứng phù bạch huyết bào thai có thể gây ra có màng cổ, đường chân tóc sau thấp, và sự xoay không bình thường của tai. Các phương pháp để xem xét bệnh nhân có hội chứng Turner bao gồm các xét nghiệm kiểu nhân nhiễm sắc thế, các xét nghiệm chức năng tuyến giáp (làm hàng năm), đánh giá ngưỡng giới hạn của thận, và điện tâm đồ.

Hội chứng Klinefelter

Hội chứng Klinefelter đặc trưng bằng 47 nhiễm sắc thể, kiểu nhân XXY (3,4). Tỷ lệ mới mắc là 1,7/1000 trẻ trai. Các rối loạn thường được phát hiện vào tuổi dậy thì hoặc trong khi kiểm tra vô sinh. Những đặc tính của bệnh ở người trưởng thành bao gồm chứng to vú ở đàn ông (40%), tinh hoàn nhỏ (chiều dài <2,5cm), tầm vóc cao, chiều dài sải tay lớn hơn chiều cao của người. Hội chứng Klinefelter là nguyên nhân thường gặp nhất của chứng giảm năng sinh dục ở nam giới, có nồng độ testosteron chỉ khoảng bằng nửa giá trị bình thường. Nồng độ LDH (lactate dehydrogenase) và hormon kích thích nang noãn (follicle-stimulating-hormone – FSH) tăng. Điều trị bằng testosteron và đôi khi cắt bỏ tuyến vú đối với trường hợp mắc chứng to vú.

Các bất thường nhiễm sắc thể khác

Ba nhiễm sắc thể 18 là bộ ba nhiễm sắc thể hay gặp đứng thứ hai (1/8000 trẻ sinh ra) (3,4k Dưới 10% những trường hợp này sống tới 1 tuổi. Ba nhiễm sắc thể 13 là bộ ba nhiễm sắc thể hay gặp đứng thứ ba, có tỷ lệ mắc là 1/20.000. Khoảng 50% những đứa trẻ mắc rối loạn này chết trong tháng đầu tiên, dưới 5% sống trên 3 tuổi. Chứng bệnh kêu giống mèo (Cri du chat) là do thiếu đoạn nhiễm sắc thể liên quan đến nhiễm sắc thể 5. Tỷ lệ mới mắc là 1/20.000. Đặc điểm lâm sàng gồm có chậm phát triển tâm thần nghiêm trọng, giảm trương lực, và khóc giống tiếng mèo con. Tuổi thọ tương đương với những bệnh nhân khác có chỉ số IQ tương tự.

Bài trướcNhững xáo trộn vì có thành viên mới trong gia đình sau khi đẻ
Bài tiếp theoCác rối loạn di truyền Mendel

BÌNH LUẬN

Nhập nội dung bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.