Các loại hành vi tình dục tuổi vị thành niên

Các loại hành vi tình dục trong tuổi vị thành niên rất nhiều, kể cả khám phá qua nói chuyện với bạn đồng đẳng, đọc các tạp chí cấm hay các phương tiện khác, sự tưởng tượng, thủ dâm, các thử nghiệm cơ thể và tình dục với bạn cùng giới và khác giới. Một điều tra quốc gia đã cho thấy rằng ở lứa tuổi 17 có 67% con trai và 56% con gái đã có quan hệ tình dục ít nhất một lần. So với 30 năm trước thì tỷ lệ phần trăm vị thành niên có quan hệ tình dục tăng lên, và tuổi có quan hệ tình dục lần đầu giảm xuống. Mặc dù có rất nhiều thay đổi trong thanh niên, do ảnh hưởng của sự phân tầng xã hội, chủng tộc, và các yếu tố khác , tuổi trung bình có giao hợp lần đầu ở nữ và nam vào khoảng 15-16 tuổi. Khi thanh niên, nhất là nữ thanh niên, có giao hợp sớm, đặc biệt trước tuổi 15 thì tổn thương cả về quá trình phát triển cơ thể và sức khoẻ thể đều tăng. Bảng 23,3 trình bày tóm tắt một số nguy cơ thường gặp ở những thanh niên có quan hệ tình dục sớm.

Các quan tâm đặc biệt liên quan đến tình dục

Thanh niên đồng tính luyến ái

Quan tâm đầu tiên mà thanh niên thường bày tỏ là về khuynh hướng tình dục trong độ tuổi vị thành niên. Những băn khoăn này có thể do bạn bè trêu chọc hoặc gán ghép, hoặc do chính quan tâm của họ về sự hấp dẫn của cơ thể hay tình cảm của người cùng giới, hoặcdo người lớn diễn giải sai về thái độ và các mối quan hệ bạn bè, hoặc trực tiếp từ lời đề nghị của những người khác. Một nghiên cứu ngang về văn hoá đã cho thấy rằng có từ 4% đến 6% những người thuộc nền văn hoá phương Tây tự nhận rằng họ là người đồng tính luyến ái hoặc trong quá khứ họ đã từng có quan hệ với người đồng tính luyến ái.

Một việc quan trọng trọng phát triển của nhiều vị thành niên là lo lắng về các quan hệ bạn đồng đẳng và sự chấp nhận. Bởi vậy nhận thức về sự gắn bó tình cảm và tình dục với một người đồng giới ngay lập tức đã gây ra cho thanh niên một cảm giác xấu hổ, sợ hãi, về sự phân biệt, có thể bị xa lánh, và bối rối không biết liệu vấn đề này có an toàn khi nói với ai không. Dấu hiệu để vị thành niên nhận ra mình là đồng tính luyến ái chủ yếu là sự ruồng bỏ của xã hội.Tự tử trong thanh niên nam bị đồng tính cao hơn 2-3 lần so với thanh niên có quan hệ tình dục khác giới. ở New York có 40% đến 50% số thanh niên vô gia cư bị đồng tính luyến ái. Tỷ lệ các “quan hệ tình dục gấp”, đặc biệt là với bạn tình nam lớn tuổi là rất cao trong thanh niên đồng tính sống trên đường phố. Vì vậy việc có nói ra khuynh hướng tình dục hay không đã trở thành vấn đề không chỉ đơn giản là quyết định làm mất uy tín mà còn là vấn đề tồn tại của các em tự nhận thấy mình là đồng tính luyến ái.

Bảng 23.3. Các nguy cơ liên quan với quan hệ tình dục ở vị thành niên.

Nguy cơ Tỷ lệ mới mắc Hậu quả
Có thai Hơn 1.000.000 thiếu niên mang thai hàng năm Gây trở ngại cho sự phát triển xã hội, làm tăng tỷ lệ biến chứng cả mẹ và con, một nửa số thiếu nữ có thai trong khi đang hoc và có con ở tuoi 19
Nhiễm virus papilloma 18-30% vị thành niên bị ảnh hưởng , hàng năm có môt triêu trường hợp Tăng nguy cơ ung thư cổ tử cung, âm hộ, dương vật, hậu môn
Nhiễm Chlamydia 8-40% vị thành niên nữ bi ảnh hưởng

Tổng số: 4 triệu trường hợp hàng năm

Tăng các nguy cơ b| viêm tiểu khung và vô sinh, đẻ non, nhiễm khuẩn mắt ở trẻ sơ sinh, viêm mào tinh hoàn, và nguy cơ nhiễm HIV tăng
Lậu Gần 30% các trường hơp xảy ra ở vị thành niên

Tổng Số 1.1 triệu hàng năm

Tăng nguy cơ bị viêm tiểu khung và vô sinh, nhiễm HIV, chửa ngoài dạ con, nhiễm khuẩn khớp, tim và não
Nhiễm HIV Tổng số có 1534 thanh thiếu niên nam, và 820 thanh thiếu niên đã đươc chẩn đoán bi AIDS , 40.000-50.000 thanh’ thiếu niên có kết quả xét nghiệm HIV dương tính Bệnh không thể chữa khỏi, thường được chẩn đoán muộn, tăng nguy cơ mắc các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục khác.
Herper sinh dục 125.000 vị thành niên mắc hàng năm phải đến bác sĩ khám (14,19) Nhiễm khuẩn tái phát những người mẹ có thai bị tổn thương hoạt động cao có thể lây truyền cho thai, nguy cơ nhiễm HIV tăng

Người cung cấp chăm sóc sức khoẻ ban đầu phải là người giúp đỡ tích cực cho thanh niên chống chọi với vấn đề này. Các câu hỏi đơn giản và không có tính chất rõ rệt về khả năng của những cảm xúc đồng tính luyến ái, hay quan hệ bất chính sẽ giúp cho phép thanh niên thảo luận vấn đề trong khía cạnh chăm sóc sức khoẻ. Giúp đỡ thanh niên có kếhoạch thực hiện an toàn tình dục, tâm sự với cha mẹ, bạn bè họ, và giúp họ đối phó với sự xa lánh và bông đùa của bạn bè có thể là những cuộc trò chuyện “cứu sống” (life-saving) với nhóm người này. Người cung cấp chăm sóc sức khoẻ phải luôn nhớ rằng nhiệm vụ quan trọng là giúp đỡ thanh niên bảo vệ sức khoẻ của họ chứ không phải là phán xét đạo đức về sự chấp nhận các quan tâm về xu hướng tình dục.

Hơn nữa một vai trò quan trọng của bác sĩ gia đình là tư vấn cho cha mẹ thanh niên mới bị đồng tính luyến ái. Cha mẹ của thanh niên đồng tính có rất nhiều lo lắng và phản ứng giống họ, ví dụ như: xấu hổ, mất tỉnh táo, cảm giác tội lỗi và sợ hãi về hậu quả lâu dài lên sức khoẻ con cái họ. PFLAG là một tổ chức cho cha mẹ và bạn bè của những người đồng tính luyến ái, tổ chức này là nguồn hỗ trợ thông tin và thường xuyên giúp đỡ gia đình họ chống chọi với vấn đề này (Xem phụ lục B ở cuối chương)

Thanh niên vô gia cư

Năm 1992, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ có khoảng 1,5 triệu thanh niên sống trên đường phố. Một trong những vấn đề chính của nhóm dân cư này là thường bị ép tham gia vào các hành vi có hại cho sức khoẻ nhằm đáp ứng nhu cầu thực phẩm và nơi trú thân của họ. Các hành vi này chủ yếu gồm hai loại chính là bán dâm và bán thuốc phiện. Đối với các em gái và trai vô gia cư, những hậu quả của bán dâm kiếm sống, thường là với người lớn, xếp loại thứ tư đe doạ tính mạng (kể cả nhiễm HIV và bạo lực) và đe doạ lâu dài cho cuộc sống. Những thanh niên trong hoàn cảnh này thường không có khả năng xác định giới hạn, thậm chí không biết mình cần gì và muốn gì trong những mối quan hệ riêng tư lành mạnh.

Thanh niên tàn tật

Những thanh niên có tinh thần, thể chất, hay tình cảm yếu kém thường bị xã hội và nhân viên ngành y xem như là những người vô tình dục. Người ta thường bỏ qua hoặc chủ động tránh những cuộc nói chuyện về tình dục với thanh niên này. Ngược lại, mặc cảm bị phân biệt trong nhóm thanh niên này sẽ làm phóng đại và phức tạp thêm trách nhiệm phát triển trong các mối quan hệ “chăn gối “ và quan hệ xã hội. Thanh niên tàn tật rất cần các thông tin chính xác về cơ thể của họ , về sự lôi cuốn của họ như mọi người, cần thảo luận về cách đối phó với nhạo báng của mọi người và các thông tin đặc biệt về chức năng tính dục mà họ bị mắc trong tình huống bất lợi. Đánh giá sàng lọc để lượng giá nguy cơ bị lạm dụng tình dục hoặc có thể bị lạm dụng ở vị thành niên bị bạc đãi nhằm làm họ yên tâm chấp nhận và hấp dẫn như một bạn tình.

Nói chuyện với vị thành niên về tình dục trong khung cảnh văn phòng

Một số nghiên cứu cho thấy rằng vị thành niên rất thích các cuộc nói chuyện về tình dục với bác sĩ, và những cuộc nói chuyện này đã giúp đỡ thanh niên có các quyết định đúng đắn về sức khoẻ tình dục. Có thể xem như là nếu không có buổi nói chuyện nào thì ta không thể giúp thanh niên có các quyết định đúng đắn, có thông tin chính xác, có cơ hội nói về tình dục với người chăm sóc sức khoẻ mà điều đó có thể gây hại cho thanh niên. Đưa ra tỷ lệ bệnh tật của các hành vi tình dục có nguy cơ cần thiết làm rõ nghĩa về tầm quan trọng của việc vị thành niên tìm cơ hội để nói về sự phát triển thể chất, tinh thần và tính dục. Sự miễn cưỡng của bác sĩ khi nói về tình dục với thanh thiếu niên trong khung cảnh văn phòng là do một vài yếu tố gồm thiếu thông tin, lo lắng không biết bắt đầu như thế nào, nghĩ rằng các cuộc nói chuyện này không tốt hoặc là hành vi tình dục thiếu thận trọng còn phải cân nhắc, hoặc là do không đủ thời gian dành cho buổi nói chuyện.

Mối quan hệ cá nhân giữa thầy thuốc và bệnh nhân cần được thiết lập trước khi nói chuyện với bệnh nhân về vấn đề tình dục. Lí tưởng nhất là quan hệ này được chắp nối từ giai đoạn sớm của tuổi vị thành niên và gặp gỡ cha mẹ họ trước.Bác sĩ có thể rất có ích khi nghĩ rằng mình có vai trò khác của người lớn, xem mình là nơi trông cậy để thanh niên nói các băn khoăn của họ về chăm sóc sức khoẻ, kể cả các vấn đề về chức năng sinh dục. Trừ khi có nguy cơ nghiêm trọng lên sức khoẻ hoặc tính mạng, một số cha mẹ thường do dự khi cho phép bác sĩ gia đình nói chuyện riêng tư với con họ. Viện Hàn lâm khoa học các bác sĩ gia đình Mỹ vừa xuất bản tài liệu hướng dẫn cách tâm tình với thanh niên, có thể giúp ích cho các bậc cha mẹ và những người trẻ tuổi. Tài liệu này trình bày rõ ràng các ranh giới của đồng ý. Phụ lục A có bản thoả thuận để cha mẹ ký nhận là họ đồng ý tôn trọng nhu cầu tâm sự riêng tư giữa con cái họ và bác sĩ gia đình

Nên hướng dẫn về giai đoạn phát triển của thanh niên chứ không về tuổi lý lịch bằng các cuộc trò chuyện với thanh niên trong khung cảnh văn phòng. Thiếu niên cần được làm yên lòng và thông tin về các thay đổi của cơ thể chúng, thay đổi các quan hệ trong gia đình và bắt đầu “không kìm nén được” cảm xúc làm khó hiểu cả cho thanh niên và cha mẹ họ. Tuổi vị thành niên giai đoạn giữa thường phải đương đầu với nhu cầu được tham gia vào nhóm bạn đồng đẳng, bắt đầu tách xa gia đình muốn thể hiện là người lớn trong quan hệ xã hội. ơ giai đoạn này nhận thức về vai trò và các nguyên tắc của nhóm bạn đồng đẳng có thể là yếu tố tiên đoán quan trọng thái độ của vị thành niên muốn gia nhập nhóm, vì vậy nếu các em ở tuổi 15 nghĩ rằng hầu hết bạn của chúng có quan hệ tình dục thì chúng sẽ tham gia vào quan hệ này rất sớm bất chấp là đã sẵn sàng về thể chất và tình cảm cho quan hệ “chăn gối”này hay chưa. Những vị thành niên mặc dù chấp nhận có quan hệ tình dục vẫn cho rằng hầu hết các bạn đồng đẳng cần được tăng cường khả năng ra quyết định. Cuối cùng là trong giai đoạn muộn của tuổi vị thành niên, các quan tâm về tình dục tập trung xung quanh các quyết định về hạnh phúc lâu dài, quyết định về các tiêu chuẩn của gia đình, hiểu rõ hơn và lo lắng về tình yêu mỏng manh của tuổi vị thành niên và hoà nhập vào các quan hệ hướng tối mục đích cuộc sống. Sơ đồ 23.1 giới thiệu cách sàng lọc vị thành niên có liên quan đến vấn đề sức khoẻ tình dục.

Bác sĩ còn phải xem xét các yếu tố phức tạp khác (lạm dụng các chất gây nghiện, nghèo đói, các vấn đề diễn ra trong trường học, các vấn đề trong gia đình, thiếu tự tin) mà có thể đưa vị thành niên vào nguy cơ hoạt động tình dục sớm. Cuối cùng là bác sĩ phải đặt mục tiêu nâng cao khả năng tự bảo vệ của vị thành niên trong mỗi lần thăm khám sàng lọc.

Dựa vào việc có sự gia tăng nguy cơ có hại cho sức khoẻ hay không, có các quan tâm đòi hỏi phải theo dõi sát không, hoặc là vị thành niên đã có quan hệ tình dục cần phải theo dõi chăm sóc nhiều hơn không mà bác sĩ phải có nhận xét cụ thể về việc gặp gỡ vị thành niên như thế nào, phải theo dõi thường xuyên để có cơ hội nói chuyện với vị thành niên hay không, hoặc là đã chắc chắn rằng vị thành niên cảm thấy thuận lợi khi gặp bác sĩ ở văn phòng nếu có nhu cầu và có nhiều lo lắng hơn. Căn cứ và các vấn đề sức khoẻ xảy ra ở vị thành niên liên quan đến việc ra quyết định hay hành vi, bác sĩ nên gặp những vị thành niên đã quan hệ tình dục hàng năm hoặc thường xuyên hơn nếu họ còn trẻ hoặc họ cần thảo luận, cần thông tin và cần được đánh giá nữa.

Khám cho vị thành niên liên quan đến sức khoẻ sinh sản cần dựa vào sự phát triển thể chất, mức độ hoạt động tình dục của họ và phải cho họ biết lý do thăm khám. Với các em mới bước vào giai đoạn vị thành niên nên khám toàn thân để khẳng định lại và để nói với các em về các thay đổi cơ thể ở lứa tuổi các em. Chỉ quyết định thăm khám khung chậu lần đầu khi các em đã giao hợp, có các hội chứng phụ khoa hay là cần khám để tránh thai. Khôngcần thiết thăm khám âm đạo và khung chậu cho các em nữ nêu không các em không có hội chứng phụ khoa hoặc có nhiều lo lắng hoặc là cần khám để tránh thai. Với các em nam, khi khám cần giảng dạy cho các em về thay đổi cơ thể, cách tự khám tinh hoàn và nói các quan tâm liên quan tới cơ thể và những khác biệt do trưởng thành. Sàng lọc các bệnh lây truyền qua đường tình dục ở vị thành niên được chỉ định khi họ đã giao hợp và phải khám thường xuyên khi họ có nhiều yếu tố nguy cơ. Mỏ vịt dùng để khám khung chậu lần đầu cho vị thành niên phải nhỏ và ấm, phải giải thích cho các em nhằm tránh các tổn thương tâm lý và cơ thể.

Vai trò giáo dục về tình dục của bác sĩ trong cộng đồng

Các bác sĩ gia đình đóng vai trò quan trọng như là những người tham vấn về sức khoẻ vị thành niên trong cộng đồng, kể cả trong trường học, nhà thờ, và các nơi khác trong cộng đồng. Bác sĩ có thể làm việc hiệu quả và phối hợp với giáo viên, hội cha mẹ học sinh, nhân viên xã hội và các nhà giáo dục sức khoẻ nhằm đẩy mạnh sự phát triển nghề nghiệp và khả năng cá nhân trong giáo dục sức khoẻ. Bác sĩ cũng có thể đảm nhận các vai trò mang tính chất chính trị với các cơ quan luật pháp, ban giám hiệu của các trường học, và các tổ chức hoạch định chính sách có ảnh hưởng và thi hành các chính sách liên quan đến sức khoẻ vị thành niên. Vai trò được tin cậy nhất trong cộng đồng là người tham vấn sức khoẻ cộng đồng, hơn là người lên lớp đạo đức. Cuối cùng thích hợp nhất đối với bác sĩ và các nhà lãnh đạo chăm sóc sức khoẻ thanh niên là đưa ra những chân dung tiêu biểu về tình dục trên phương tiện thông tin đại chúng và khuyến khích giới thiệu các chương trình không có các thông tin mâu thuẫn về tình dục. Ví dụ như các quảng cáo thương mại về sự liên quan giữa rượu và sự lôi cuốn tình dục đã làm ảnh hưởng không tốt tới mục đích của phát triển tình dục lành mạnh và các quan hệ “chăn gối” lành mạnh lâu dài ở tuổi trưởng thành. Khi làm việc với cha mẹ các em, cần cung cấp tài liệu và các phương tiện giúp họ có kế hoạch cụ thể và cũng giúp họ nói chuyện về tình dục ở gia đình là rất có ích. Phụ lục B liệt kê một số nguồn liên quan giáo dục tình dục mà bác sĩ có thể gợi ý các bậc cha mẹ đọc ở nhà.

Một số bác sĩ làm việc trực tiếp với thanh niên ở trường học có những lo lắng khi phải đôi phó về sự hiếu kỳ của một nhóm người và thỉnh thoảng phải đối mặt với thanh thiếu niên. Sự e ngại thường gặp của những người diễn thuyết trong cộng đồng là sự khác biệt về ngôn ngữ sẽ cản trở cuộc nói chuyện, hay là ngôn ngữ mà thanh niên dùng sẽ gây khó chịu, kể cả lo sợ là sẽ không ai nói, và xử lý các trở ngại và các câu hỏi khêu gợi sẽ khó khăn. Hiếm khi các nỗi lo lắng này là có thực, hai hoặc ba nguyên tắc căn bản có ích khi làm việc với nhóm vị thành niên trong trường học và cộng đồng là: thứ nhất, về phía cá nhân, buổi nói chuyện phải dựa trên các câu hỏi và các băn khoăn của vị thành niên hơn là dựa trên nhu cầu cung cấp thông tin của người lớn. Thứ hai, vị thành niên ít khi hỏi những câu hỏi về các chủ đề nhạy cảm trước tập thể. Vì vậy phải có cách để gọi những câu hỏi dấu tên như là chuyển câu hỏi vào mũ và người tình nguyện sẽ đọc các câu hỏi. Thứ ba, các em sẽ học được nhiều hơn khi các bạn trong nhóm trả lòi, vì vậy việc thành lập một nhóm các vị thành niên chủ chốt (được bác sĩ huấn luyện) có thể là một chiến lược nhằm sử dụng các khía cạnh tích cực từ áp lực của bạn bè để cung cấp thông tin và thảo luận những tình huống có thực mà thanh thiếu niên gặp phải. Cuối cùng là các cuộc thảo luận nhóm với thanh thiếu niên phải có một chút nhẹ nhàng. Mở rộng thảo luận có thể khêu gợi được các quan điểm riêng của vị thành niên về vấn đề và cách giải quyết vấn đề của họ. Để giúp thanh niên chấp nhận những hành vi lành mạnh thì thảo luận nhóm bạn đồng đẳng thường thành công hơn là thuyết trình.

Hình 23.1. Sơ đồ sàng lọc, đánh giá và hướng dẫn tinh dục lành mạnh
Hình 23.1. Sơ đồ sàng lọc, đánh giá và hướng dẫn tinh dục lành mạnh
Bài trướcĐiều trị chứng Khí hư ở phụ nữ (đới hạ) theo đông y
Bài tiếp theoLàm thế nào để phòng ngừa lây nhiễm cúm A hiệu quả?

BÌNH LUẬN

Nhập nội dung bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.