Viêm gan A
Viêm gan A là do nhiễm một loại virus có ARN chuỗi đơn thuộc họ Picornaviridae (xem Chương 90). Đường lây truyền chủ yếu là đường phân – miệng và bệnh nhiễm trùng này có tính phổ biến trên khắp thế giới và thường bị nhiễm bệnh từ thức ăn đã bị nhiễm khuẩn. Giai đoạn ủ bệnh thay đổi từ 10 đến 50 ngày. Những triệu chứng là khó chịu, biếng ăn, buồn nôn, và đôi khi nôn, và mỏi mệt có thể giống như có thai thường. Những phụ nữ có thai bị virus viêm gan A (HAV) có thể phát triển vàng da, nhậy cảm đau ở 1/4 vùng bụng trên bên phải. Kháng thể globulin miễn dịch M (IgM) kháng HAV thì dương tính trong pha vàng da và tồn tại 4 đến 6 tháng . Do virus viêm gan A không qua màng của rau nên không xảy ra nhiễm khuẩn bên trong tử cung.
Điều trị chủ yếu là hỗ trợ, vì thương tổn gan tối cấp và tử vong ít gặp. Tiêm bắp y globulin miễn dịch 0,02 ml/kg liều duy nhất được chỉ định để dự phòng cho người trước và sau phơi nhiễm với nguồn bệnh và họ thường là các bà nội trợ, tiếp xúc gần gũi hoặc là có sinh hoạt tình dục với những người được biết là bị viêm gan A.
Vaccin chống viêm gan A (Havrix, SmithKline-Beecham Biologicals, Philadelphia) là một vaccin chết do được làm bất hoạt bằng formalin, được chuẩn bị từ virus toàn phần mọc trong những tế bào lưỡng bội của người và được khuyên để dự phòng . Không có số liệu thông báo về sự an toàn của vaccin này khi sử dụng cho những phụ nữ có thai.
Viêm gan B
Hơn 300 triệu người trên khắp thế giới bị nhiễm mạn tính virus viêm gan B (HBV) một loại hepadnavirus có ADN và dẫn đến những hậu quả là viêm gan mạn hoạt động, viêm gan mạn dai dẳng, xơ gan, và ung thư biểu mô tế bào gan. Nhiều bằng chứng chỉ ra rằng những quần thể có nguy cơ cao đã gây nhiễm khuẩn chu sản thông qua sự lây truyền thẳng từ mẹ sang con . Tại Mỹ, khoảng 40% những trẻ em sinh ra từ những bà mẹ dương tính với kháng nguyên bề mặt viêm gan B (HBsAg) trở thành bị lây nhiễm. Hiện nay ở Mỹ đã có sẵn vaccin ADN tái tổ hợp ngăn ngừa được sự lây truyền của tác nhân này.
Mặc dù độ thịnh hành của virus này ở Mỹ thấp hơn đáng kể so với những nơi khác trên thế giới (chẳng hạn châu Á và châu Phi) nhưng bắt buộc những người thầy thuốc thực hành chăm sóc cho những phụ nữ có thai phải sàng lọc những thai phụ bị nhiễm virus viêm gan B nhằm để xác định những đứa trẻ có nguy cơ lây nhiễm và chúng sẽ được lợi khi được tiêm chủng.
Sự sàng lọc được thực hiện bằng xét nghiệm huyết thanh tìm HBsAg. Những tỷ lệ đặc hiệu và nhạy cảm được biện minh cho việc gây miễn dịch dự phòng cho sơ sinh khi xét nghiệm cho mẹ dương tính. Điều này thường được thực hiện bằng tiêm chủng globulin miễn dịch viêm gan B (HBIg) và vaccln viêm gan B (HBVac) cho trẻ sơ sinh vào lúc mới đẻ. Nếu chỉ tiêm chủng bằng HBVac thì tiêm vào lúc 1 và 6 tháng tuổi và xét nghiệm về HBsAg và kháng thể nhân của viêm gan B (kháng HBC) vào lúc 15 tháng.
Nhiễm khuẩn thai do lây truyền qua bánh rau thì hiếm gặp. Những phụ nữ có những xét nghiệm HBsAg dương tính phải được đánh giá để tìm sự hiện diện của bệnh gan mạn tính bằng bệnh sử đầy đủ và khám xét thực thể với đánh giá về những mức aminotransferase và y – glutamyl transferase (GGT). cần phải đánh giá những tiếp xúc thân mật và những người này có HBsAg âm tính và có kháng thể HBC thì phải tiêm chủng thông lệ bằng HBVac .
Viêm gan C
Viêm gan C, giống như viêm gan B, được truyền qua dịch của cơ thể và có những yếu tố nguy cơ lớn của tiêm truyền những sản phẩm máu, tiêm chích ma tuý và có nhiềubạn tình. Tại một thời điểm xấp xỉ 20% đến 40% của viêm gan virus cấp tại Mỹ được phân loại là “không A, không B” do vì thiếu những chỉ điểm về huyết thanh cho virus viêm gan A (HAV) và virus viêm gan B (HBV) . Ngày nay người ta cho rằng phần lớn viêm gan không A và không B là do virus viêm gan c (HCV). Virus chứa ARN này có liên quan với những virus dịch hạch (pestivirus). Xét nghiệm huyết thanh có thể xác định những kháng thể với HCV, dù rằng kháng thể là một tiên đoán không đáng tin cậy vì sự chậm trễ trong chuyển đổi huyết thanh sau khi phơi nhiễm. Xấp xỉ 50% những người bị nhiễm virus này biểu hiện bệnh gan mạn tính qua những xét nghiệm sinh hoá.
Mặc dù người ta đã phê chuẩn việc dùng interferon – a để điều trị, nhưng vì thiếu kinh nghiệm với thai nghén đã dứt khoát ngăn cản việc dùng và sự sử dụng rộng rãi cho thai nghén. Lây truyền trực tiếp xảy ra 4% đến 50% và có thể tăng lên nếu có thêm virus gây suy giảm miễn dịch người (HIV) . Nguy cơ cho trẻ sơ sinh là cao nhất khi nhiễm virus viêm gan c cấp tính (HCV) xảy ra ở người mẹ trong quý 3 của thai nghén. Nhiễm bệnh cấp tính trong quý thứ nhất hoặc thứ hai không gây ra nguy cơ đáng kể cho thai.
Viêm gan D
Viêm gan là do một virus ARN không hoàn hảo : virus viêm gan D (HDV). Virus này đã được chứng minh là đồng nhiễm virus viêm gan B (HBV). Sự nhiễm tác nhân này chỉ xảy ra khi có mặt HBsAg. Sự lây truyền của virus viêm gan D (HDV) thì tương tự như sự lây truyền của virus viêm gan B (HBV) trừ một số hiếm những thông báo về lây truyền cho sơ sinh.
Phần lớn những cá nhân bị nhiễm bệnh là những người tiêm chích ma tuý hoặc tiếp xúc tình dục. Sự nhiễm thêm virus viêm gan D (HDV) dẫn đến khả năng 80% bị viêm gan mạn tính ở những người có viêm gan B từ trước.
Hiện nay, chưa có liệu pháp đặc trưng có sẵn cho virus viêm gan D một khi bệnh xảy ra. Từ đó yếu tố chủ chốt để ngăn ngừa lây truyền của virus viêm gan D nằm trong sự ngăn ngừa nhiễm virus viêm gan B .