Điện Châm

I. ĐẠI CƯƠNG

A. ĐỊNH NGHĨA

Điện châm là phương pháp dùng một dòng điện nhất định tác động lên các huyệt châm cứu để phòng và chữa bệnh. Dòng điện được tác động lên huyệt qua kim châm, hoặc qua các điện cực nhỏ đặt lên da vùng huyệt.

Khái niệm đau:

* Theo y học cổ truyền: Cuốn Nội kinh có viết: “thông tắc bất thống, thống tắc bất thông”

Khí huyết vận hành bình thường trong kinh lạc thì không đau

Khí huyết tắc nghẽn, ứ trệ thì gây đau

Hướng điều trị: Hành khí hoạt huyết, thông kinh hoạt lạc, giảm thống

* Theo y học hiện đại: Đau là một cảm giác đặc biệt, bao gồm 4 yếu tố chính (theo Anokhin- Capentier, 1972)

+ Yếu tố hoá học (chemistery)

+ Phản xạ thần kinh thực vật (Vegétative Reflex)

+ Yếu tố tâm lý (Psychology)

+ Động lực cảm xúc (Motion)

– Yếu tố hoá học: + Receptors:

+ Neuropeptit: endorphin, enkephalin, acetylcholin, catecholamin, các chất neuropeptit và các receptor tham giam vào quá trình dẫn truyền cảm giác đau và chống đau.

– Yếu tố tâm lý: + Nhóm nhạy cảm: thần kinh nghệ sỹ, lao động trí óc

+ Nhóm không nhạy cảm: Lao động chân tay

Yếu tố tâm lý có vai trò nhất định trong phản ánh cảm giác đau, nhưng đây là yếu tố mang tính cá thể, rất khó định lượng và mang tính định tính cao.1.2. Phương pháp chống đau.

Hiện nay, y học có hai nhóm phương pháp chống đau chính là:

– Chống đau dùng thuốc (Tây y và Đông y)

– Chống đau không dùng thuốc: phương pháp điện châm, xoa bóp bấm huyệt là một trong những phương pháp kích thích hệ thống chống đau của cơ thể, hoạt hoá các cơ quan sản xuất các chất chống đau ở mức cao nhất.

B. ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA ĐIỆN CHÂM

Đây là phương pháp kết hợp chặt chẽ giữa phương pháp chữa bệnh bằng châm cứu (của YHCT) với phương pháp chữa bệnh bằng dòng điện (của YHHĐ).

Do đó phương pháp điện châm có đặc điểm:

– Sử dụng tác dụng chữa bệnh của huyệt vị, kinh lạc.

– Sử dụng tác dụng điều trị của dòng điện.

Muốn phát huy đầy đủ hiệu quả của phương pháp điều trị điện châm trên huyệt nhất thiết phải vận dụng nghiêm chỉnh học thuyết kinh lạc nói riêng và những lý luận đông y nói chung. Đồng thời phải có hiểu biết đầy đủ và vận dụng chặt chẽ những tác dụng sinh lý, bệnh lý của các loại dòng điện.

Trong điều trị bằng phương pháp điện châm, chỉ mới dùng phổ cập dòng điện một chiều và dòng xung điện.

II. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHƯƠNG PHÁP ĐIỆN CHÂM THEO YHHĐ

A. NHỮNG PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ ĐIỆN TRÊN HUYỆT

Hiện nay có 4 nhóm phương pháp điều trị điện:

1. Điện trường tĩnh điện và ion khí.

2. Dòng điện một chiều đều.

3. Các dòng điện xung tần số thấp, điện thế thấp.

4. Các dòng điện cao tần.

B. DÒNG ĐIỆN MỘT CHIỀU ĐỀU

1. Tác dụng sinh lý của dòng điện một chiều đều:

– Gây bỏng nơi đặt điện cực (hiện tượng điện phân dịch thể tổ chức).

– Gây giãn mạch, tuần hoàn tại chỗ nơi đặt điện cực (nếu loại bỏ tác dụng gây bỏng bằng cách đệm nhiều lớp vải dưới các điện cực).

– Gây tình trạng mẫn cảm tăng, trương lực cơ tăng tại cực âm.

– Gây tình trạng giảm cảm giác, giảm trương lực cơ, giảm đau, giảm co thắt tại cực dương.

– Tăng tuần hoàn máu, tăng dinh dưỡng chuyển hóa của các cơ quan tổ chức nằm giữa các điện cực.

– Các cơ quan ở xa chỗ đặt điện cực nhưng có liên hệ về mặt tiết đoạn thần kinh cũng đồng thời bị ảnh hưởng.

– Toàn thân: tác dụng an thần, tạo cảm giác khoan khoái dễ chịu (khi người bệnh đang có tình trạng hưng phấn) và ngược lại, nó sẽ tạo một tác dụng tăng trương lực thần kinh cơ (khi người bệnh đang suy nhược).

2. Chỉ định của dòng điện một chiều đều:

1. Tăng cường điều hòa hoạt động thần kinh thực vật và các quá trình hoạt động thần kinh cao cấp trong suy nhược thần kinh, mất ngủ …

2. Tăng cường tuần hoàn dinh dưỡng ở một bộ phận hoặc một tạng phủ ở sâu (trực tiếp hoặc qua trung gian tiết đoạn thần kinh).

3. Đưa thuốc vào cơ thể bằng hiện tượng điện phân thuốc.

4. Dùng tác dụng gây bỏng tại điện cực âm để đốt các chân lông mi xiêu vẹo, nốt ruồi….

3. Những đặc điểm khi ứng dụng dòng điện một chiều đều trong điện châm.

– Dòng điện được đưa trực tiếp tới ngay các tổ chức tế bào của cơ thể, đặc biệt nơi ấy được gọi là huyệt, nơi “mẫn cảm đặc biệt” (điện trở da thấp).

– Do hiện tượng bỏng xảy ra dọc phần thân kim đâm vào tổ chức vẫn tồn tại một thời gian sau đó (hàng tuần) nên có tác dụng kích thích tiếp tục tại huyệt sau đó. Châm một lần có tác dụng 5 – 7 ngày.

– Giảm đau, giảm co thắt tại cực dương, tác dụng hưng phấn, tăng trương lực cơ tại cực âm.

– Tổng hợp tất cả các đặc điểm trên, điện châm và dòng diện một chiều đều thường dùng trong các bệnh mạn tính.

Chú ý: Do việc điện phân làm mòn kim cho nên cần chú ý kiểm tra kim thường xuyên, tránh tình trạng gãy kim.

C. CÁC DÒNG ĐIỆN XUNG TẦN SỐ THẤP, ĐIỆN THẾ THẤP

1. Tác dụng sinh lý của các dòng điện xung:

– Tác dụng kích thích: nhờ vào sự lên xuống của cường độ xung (độ dốc lên xuống càng dựng đứng bao nhiêu thì kích thích càng mạnh).

– Tác dụng ức chế cảm giác và giảm trương lực cơ: tác dụng này đến nhanh khi tần số xung lớn hơn 60Hz. Tần số gây ức chế tốt nhất là 100 – 150Hz.

Từ những tác dụng chung nhất nêu trên, do đặc điểm về hình thể, cường độ và tần số xung của các dòng điện xung mà:

+ Dòng Faradic (xung gai nhọn, Hz: 100): chủ yếu tác dụng kích thích mạnh. Tuy nhiên nếu dùng lâu thì gây ức chế.

+ Dòng Leduc (xung hình chữ nhật, Hz: 100 – 1000): tùy tần số, thời gian xung, thời gian nghỉ mà có tác dụng hưng phấn hay ức chế mạnh hơn.

+ Dòng Lapicque (xung hình lưỡi cày, độ dốc lên xuống thoai thoải): ứng dụng tốt với những trường hợp cơ và thần kinh đã bị thương tổn.

+ Dòng Bernard (xung hình sin; 50 – 100Hz): ứng dụng tốt cho những trường hợp cơ và thần kinh bị thương tổn. Tuy nhiên dòng 50Hz có tác dụng kích thích trội hơn, dòng 100Hz có tác dụng ức chế trội hơn. Tác dụng điện phân của dòng Bernard cũng mạnh.

+ Dòng giao thoa thực tế có tần số từ 10 – 100Hz phátsinh ra trong tổ chức ở sâu: nó chỉ tác dụng đến những bộ phận ở sâu, không tác dụng trên cảm giác bề mặt da nên có thể tăng cường độ đến mức gây co cơ ở sâu mà bệnh nhân có thể chịu được dễ dàng. Tác dụng ức chế hay hưng phấn tùy tần số.

2. Những chỉ định chính của dòng điện xung:

– Kích thích các cơ bại liệt.

– Chống đau.

– Tăng cường tuần hoàn ngoại vi, khi có hiện tượng co thắt mạch, phù nề, sung huyết tĩnh mạch…

III. KỸ THUẬT ĐIỀU TRỊ ĐIỆN TRÊN HUYỆT

A. CÁC CÁCH ĐIỀU TRỊ ĐIỆN TRÊN HUYỆT

1. Dùng kim dẫn điện vào huyệt:

– Cách thực hiện: sau khi châm kim vào huyệt theo đúng thủ thuật cần châm, cho cực điện tiếp xúc với kim để kim dẫn điện vào thẳng tổ chức.

– Đặc điểm:

– Dòng điện được kim dẫn trực tiếp tới các tổ chức tế bào của cơ thể.

+ Dòng điện được kích thích vào những chỗ gọi là huyệt (nơi có khả năng tiếp nhận các kích thích từ bên ngoài để chữa bệnh (YHCT), nơi có một mẫn cảm đặc biệt (YHHĐ).

+ Diện tích của cực điện tiếp xúc với cơ thể hết sức nhỏ (0,1-0,5 cm2), mật độ điện trên một đơn vị diện tích trở nên cao. Chính vì thế mà chỉ đưa vào huyệt một công suất điện hết sức nhỏ cũng vẫn gây ra một tác dụng kích thích mạnh.

+ Khi dùng dòng diện một chiều đều, tổ chức quanh kim sẽ bị bỏng hóa học (dù rất nhỏ). Sau khi rút kim, ảnh hưởng của bỏng vẫn còn tồn tại một thời gian và trở thành một kích thích thường xuyên đối với huyệt.

Nhờ vậy khoảng cách 2 lần châm cho một huyệt có thể kéo dài ra rất hợp với điều trị bệnh mạn tính.

2. Dùng cực điện nhỏ đưa điện qua da vào huyệt:

– Cách thực hiện: đặt những điện cực (thường là những bản dẹt) lên mặt da tại những huyệt. Cố định điện cực lên mặt da với những băng dính (hiện nay đã sản xuất những điện cực dán được trên mặt da). Nối với các điện cực của máy điện châm.

– Đặc điểm:

+ Khác với điện châm cách 1: không làm bệnh nhân đau hay khó chịu. Kết quả không nhanh và thường được đánh giá là không bằng cách 1.

+ Khác với lý liệu pháp: dòng điện chỉ đưa vào một diện hẹp (chỉ đưa vào các huyệt thích ứng), dòng điện cho vào nhỏ nhưng vẫn có được những tác dụng tại chỗ và toàn thân mong muốn.

B. CÁCH TIẾN HÀNH CHÂM ĐIỆN

1. Chọn huyệt:

Chẩn đoán xác định nguyên nhân bệnh theo y học hiện đại và y học cổ truyền, đề ra phương pháp chữa bệnh, chọn huyệt tiến hành châm kim(giống như châm kim thường quy).

Trong giai đoạn này yếu tố cần quan tâm là việc chọn huyệt để kích thích điện. Chọn huyệt để châm thường có nhiều, song không phải tất cả đều phải được kích thích điện mới tốt. Nguyên tắc lớn trong điều trị điện là dòng điện phải đi qua nơi cần điều trị hay cực điện phải đặt trên vùng da có cùngtiết đoạn thần kinh với nơi cần điều trị. Do đó chỉ cho điện kích thích lên huyệt khi nào yêu cầu của châm cứu và của điều trị điện phù hợp với nhau.

Việc chọn huyệt kích thích điện có thể thực hiện như sau:

– Đối với đau nhức, viêm nhiễm:

+ Huyệt cơ bản là A thị.

+ Huyệt thứ 2 có thể được chọn theo một trong những cách sau:

. Ở phía đối diện sao cho dòng điện đi qua được nơi đau.

. Ở trên đường kinh đi qua nơi đau.

. Là huyệt có tác dụng đối với bệnh và có cùng tiết đoạn thần kinh với vùng đau cần điều trị (ví dụ: đau ngực chọn A thị và Nội quan).

– Đối với bại liệt: có thể chọn như sau:

+ Cả 2 huyệt nằm trên đường kinh đi qua nơi bị liệt.

+ Huyệt cùng tiết đoạn thần kinh với cơ bị liệt.

+ Một huyệt trên điểm vận động của cơ bị liệt, huyệt thứ 2 chọn dọc theo cơ bị liệt.

2. Chọn dòng điện và cực điện:

Trước mỗi bệnh cụ thể, muốn chọn dòng điện nào, cần lưu ý xem lại tác dụng sinh lý, tác dụng chữa bệnh của dòng điện của máy có phù hợp với bệnh cần chữa không?

– Nói chung, dòng diện một chiều đều thích hợp nhất với điều trị bệnh mạn tính, những trường hợp cần phục hồi dinh dưỡng của các tổ chức.

– Trong khi đó dòng điện xung có tác dụng tốt trong chống đau, kích thích cơ bại liệt, tăng cường tuần hoàn cho những vùng bị giảm tuần hoàn do lạnh, viêm, co thắt….

Việc chọn cực điện rất quan trọng mà thường bị bỏ quên vì tác dụng của cực âm và cực dương hoàn toàn trái ngược nhau. Do đó, tùy theo yêu cầu của vị trí đặt cực điện mà chọn cực kích thích

+ Chọn cực âm: dùng kích thích thần kinh cảm giác, tăng mẫn cảm, tăng trương lực cơ và thần kinh, tăng hoạt động dinh dưỡng và chuyển hóa.

+ Chọn cực dương: dùng ức chế thần kinh cảm giác, giảm mẫn cảm, giảm trương lực cơ và thần kinh, giảm đau, giảm co thắt.

3. Tiến hành kích thích điện trên kim:

– Kiểm tra lại máy móc trước khi vận hành, tất cả các núm điện phải ở vị trí số 0 (công tắc đóng).

– Trên các kim đã châm, chọn lắp điện cực theo yêu cầu của chữa bệnh, nối điện cực vào kim.

– Bật côngtắc cho máy chạy, xem đèn báo, vặn núm điều khiển công suất điện kích thích tăng từ từ, đạt đến mức độ yêu cầu của điện thế và cường độ thích ứng với từng người bệnh (người bệnh có cảm giác dễ chịu hay hơi căng tức, chịu đựng được). Người thầy thuốc có thể thấy vùng kích thích điện co nhịp nhàng, giao động kim điều hòa.

C. LIỆU TRÌNH ĐIỆN CHÂM

Liệu trình chữa bệnh bằng điện châm nói chung cũng giống như châm cứu, thủy châm. Thời gian của mỗi lần điều trị cầndựa vào sự tiếp thu kích thích của từng người bệnh, trong từng bệnh, từng lúc, đối vớitừng loại dòng điện mà quyết định. Nói chung cần theo dõi, đánh giá tình trạng bệnh nhân sau khi châm lần thứ nhất.

– Nếu bệnh giảm, không có mệt mỏi, mất ngủ….: duy trì thời gian kích thích.

– Nếu bệnh giảm, kèm mệt mỏi, mất ngủ…: tổng lượng kích thích quá mạnh. Cần giảm thời gian kích thích.

– Nếu bệnh giảm ngay sau khi điều trị, về nhà đau trở lại, cần tăng thời gian lên.

Trung bình ngày châm một lần hay cách ngày châm một lần: từ 10 đến 15 lần điện châm là một liệu trình, nghỉ độ 10 đến 15 ngày rồi tiếp tục tùy theo yêu cầu chữa bệnh.

Khi gặp người bệnh có cơn đau liên tục, có thể ngày điện châm vài lần.

D. TAI BIẾN VÀ CÁCH XỬ TRÍ, ĐỀ PHÒNG

– Tai biến của châm kim: choáng, chảy máu, gãy kim, đề phòng và xử lý giống như đã nêu trong chương phương pháp châm kim.

– Tai biến của kích thích điện: đối với dòng xung điện thì hầu như rất ít tai biến. Nếu người bệnh thấy khó chịu, chóng mặt….thì ngừng kích thích điện động thời rút kim ra ngay.

BÌNH LUẬN

Nhập nội dung bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.