ĐÔNG CHỮA BỆNH VIÊM ĐA KHỚP
Bỉện chứng Đông y:
Khí hư huyết trệ, đờm thấp bế tắc kinh lạc, làm tổn thương âm huyết.
Cách trị:
ích khí dưỡng huyết, tư âm lương huyết, hoạt huyết hoá đờm.
Đơn thuốc:
Gia vị ích khí dưỡng huyết thang.
Bài thuốc:
Sinh hoàng kỳ 16g, Đương quy 16g, Hạnh nhân 10g, Quất hồng 10g, Nhân trần 30g, Bại tương thảo 30g, Sinh địa 10g, Bạch thược 20g, Đơn bì 10g, Mộc qua 12g, Trắc bá thán 15g, Tri mẫu 10g, Hoàng bá 8g,-Địa cốt bì 10g, Sinh Mẫu lệ 12g, Ngân hoa 20g, Phù tiểu mạch 12g, Hương phụ 10g, Xa tiền tử 10g, Linh dương giác phấn (uỗhg với nước thuốc) l,2g. sắc uống ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng:
Trần XX, nữ, 62 tuổi. Khám ngày 13/3/1962. Một năm nay ăn uống kém, gầy ốm, 2 mé bắp chân thấy có nốt ứ huyết kèm hơi phù thũng, tay chân các khớp đau nhức, hay hoảng sợ, mệt mỏi, sườn đầy tức, bệnh viện khám thây gan lách sưng to. Một tháng nay mũi thường chảy máu. lượng nhiều, có khi kéo dài 2-3 giờ, các chứng trạng ngày càng tăng. Vào bệnh viện để điều trị. Bệnh nhân bị cao huyết áp hơn 20 năm. Khám thây thân nhiệt bình thường, phát dục và dinh dưỡng tốt, vùng lưng, bụng và 2 chân có những nốt xuất huyết tím, gan dưới bờ sườn 7mm, lách dưới rôn 3mm, cứng, sờ không đau. Xét nghiệm Bạch cầu 3000/mm3, Trung tính 60%, Đơn hạch 1%, Huyết sắc tố lg%, Hồng cầu 3.180.000/mm3, Tiểu cầu 48.000/mm3, Albumin (++), có tế bào trụ hạt. Kiểm tra chức năng gan Maclagan 11,4 đơn vị, phản ứng Hanger (++), tranzaminase glutamic 18 đơn vị, thời gian chảy máu 1 phút 30 giây, tế bào lưới 1,2%, thời gian đông máu 37 giây (bình thường là 18 giây), chụp ảnh thực quản tĩnh mạch giãn, khoang ngực bên phải có một ít dịch ứ đọng, có hình ảnh xuyên qua ngực.
Chẩn đoán hội chứng Banti, viêm màng ngực thể lao hạch. Dùng các loại kháng sinh, chông lao, và Vitamin, dịch nước có giảm, nhưng các chứng trạng không chuyển biến, đến Đông y điều trị. Khám hiện trạng ăn uống ít, gầy ôm, mệt mỏi, hoảng sợ, chóng mặt, bụng đầy trướng, ngủ kém, da có những nốt ban tím, mũi chảy máu, hai chân phù thũng, có khi tự ra mồ hôi, mồ hôi trộm, rêu lưỡi mỏng trắng, chất lưỡi tím đỏ, mạch Hoạt Sác Trầm, vô lực. Đó là do khí hư, huyết trệ, tháp đờm ngăn trở, làm tổn thương âm huyết. Phép trị là ích khí dưỡng huyết, tư âm lương huyết, hoạt – huyết hoá đờm. Dùng Gia vị ích khí dưỡng huyết thang.
Sau khi uông 12 thang, – ngày 26 tháng 3 khám lại, thấy các mốt xuất huyết đã tan hết, tinh thần phấn chấn, ra máu mũi ít, đè vào là ngừng chảy máu. Tiếp tục dùng bài thuốc trên bỏ Trắc bá diệp, ĐịíLcọt bì, Phù tiểu mạch, thêm Tiểu kế 15g, Huyết dư thán 10g, Xuyên hoàng liên 4,5g, Trạch lan 10g, Đăng tâm l,5g, uống tiếp. Sau đó dùng bài trên gia giảm uống gần 3 tháng, các chứng trạng cơ bản đã hết, chứng chảy máu dưới da, mũi chảy máu cũng đều hết. Kiểm tra lại thời gian chảy máu, thấy đã trở lại bình thường., bệnh tình ổn định. Ngày 1/11 kiểm tra lại chức năng gan, về cơ bản đã bình thường, theo dõi hơn 1 năm, thấy bệnh tình ổn định, không thấy còn chảy máu mũi nữa.
Nhận xét:
Bệnh nhân trên bệnh tình kéo dài, chủ yếu là xuất huyết dưới da và mũi, kèm hoảng sợ, chóng mặt, mệt mỏi, ngủ kém, ra mồ hôi, đó là dấu hiệu phần khí bị hư; Ăn kém, bụng trướng, phù thũng, do Tỳ hư nhược không vận hoá, khí hư không nhiếp được huyết, Tỳ hư không làm cho huyết lưu thông được, khí hư không làm cho huyết lưu thông được thì huyết bị trệ, ứ tắc. Tỳ hư không vận hoá được thấp, thấp ngưng kết lại thành đờm, thấp uất tích lại thành nhiệt, đờm thấp trở trệ bế tắc kinh lạc, nhiệt làm tổn thương huyết lạc, huyết không về kinh, tràn ra ngoài lạc, do đó ngoài da sinh ban đỏ, chảy máu mũi. Vì thấp nhiệt bị kềm chế lâu ngày, nung nấu làm cho phần âm bị tổn thương khiến cho mồ hôi tự ra.
Phép trị chủ yếu là ích khí dưỡng huyết, thêm các vị tư âm, lương huyết, hoạt huyết, để thanh lợi thấp nhiệt ở huyết, -hoá đờm, thông lạc. Trong bài dùng Hoàng kỳ, Đương quy, Bạch thược để ích khí dưỡng huyết; Hương phụ hành khí, giúp hoạt huyết; Mẫu lệ, Địa cốt bì, Sinh địa, Tri mẫu dưỡng âm thanh nhiệt; Hạnh nhân, Quất hồng. Mộc qua hoá đờm, hoà Tỳ; Linh dương giác, Đơn bì lương huyết hoạt huyết; Trấc bố diệp lương huyết, chỉ huyết; Nhân trần, Bại tương thảo, Hoàng bá, Kim ngân hoa, Xa tiền tử thanh lợi thấp nhiệt ở huyết; Phù tiểu mạch ích khí liễm hãn. Trọng điểm của bài thuốc là điều lý khí huyết để trị gô’c bệnh (bản), thanh lợi thấp nhiệt để trị triệu chứng (tiêu), khiến cho khí huyết được điều hoà, lưu thông. Vì vậy. không trị triệu chứng mà lại làm cho bệnh tình nhẹ di và khỏi bệnh (Quan Âu Ba – Bắc Kinh).