3 KINH CÂN ÂM Ở TAY

KINH CÂN PHẾ

Lộ trình đường kinh

Xuất phát góc ngoài gốc ngón cái (thiếu thương), chạy theo đường kinh chính đến giữa khuỷu, chạy lên theo mặt trước cánh tay đi vào vùng dưới nách ở huyệt uyên dịch (kinh Đởm), chạy trở lên hố thượng đòn, gắn vào mặt trước vai rồi quay trở lại hố thượng đòn, đi vào trong thành ngực, gắn ở đó và phân nhánh ở tâm vị và hạ sườn.

Triệu chứng rối loạn của đường kinh ư Đau cứng cơ vùng đường kinh đi qua.

Trường hợp nặng:

Đau tức ngực, hội chứng ép ở thượng đòn.

Đau co cứng ở hạ sườn kèm ói máu.

Thiên 13 sách Linh khu: “Khi bệnh, nó (thủ thái âm) sẽ làm cho suốt con đường mà nó đi qua đều bị chuyển cân, đau. Nếu nặng hơn sẽ thành chứng tức bôn, hông sườn bị vặn, thổ huyết”.

Kinh cân phế

Lộ trình kinh cân Phế ở bàn tay, cẳng tay, cánh tay, mặt trước vai có phân bố hoàn toàn giống kinh chính Phế.

Lộ trình kinh cân Phế ở thân có phân bố ở thành ngực, hạ sườn và chấn thủy, khác với kinh chính Phế.

Kinh cân Phế hợp với kinh cân Tâm bào và kinh cân Tâm tại huyệt uyên dịch

KINH CÂN TÂM BÀO

Lộ trình đường kinh

Xuất phát từ góc ngoài gốc ngón giữa trung xung đi trong lòng bàn tay đến cẳng tay, tới giữa khuỷu tay chạy lên theo kinh chính đến dưới nách.

Từ đây chia làm 2 bó:

Bó 1: phân nhánh đến các sườn và tận cùng ở sườn 12 bên đối diện.

Bó 2: đi sâu vào vùng dưới nách ở huyệt uyên dịch rồi phân nhánh ở thành trong lồng ngực và tận cùng ở tâm vị.

Triệu chứng rối loạn của đường kinh

Rối loạn đường kinh do nguyên nhân bên trong:

Đau dọc theo bên trong thành ngực kèm cảm giác ép ở thượng đòn.

Đau cứng cơ dọc theo lộ trình đường kinh:

Thiên 13, sách Linh khu viết: “Bệnh của nó xảy ra sẽ làm cho suốt con đường mà nó đi qua đều bị chuyển cân cho đến vùng ngực bị đau, chứng tức bôn”.

Chú thích: “tức bôn” được chú giải như sau

Nội kinh giảng nghĩa: “Tức bôn là một trong ngũ tícChứng này khiến cho người bệnh hô hấp dồn dập, gấp rút”.

Điều 56, sách Nạn kinh có ghi: “Tích khí của phế gọi là tức bôn hình thành ở dưới sườn phía hữu, to như cái ly úp xuống, bệnh lâu không dứt khiến cho người bệnh bị vào trạng thái lúc hàn, lúc nhiệt, ho suyễn, phát ra phế ung ”.

Thiên 4, sách Linh khu: “Phế mạch khi hoạt thậm gây thành chứng tức bôn”.

KINH CÂN TÂM BÀO

Lộ trình kinh cân Tâm bào ở bàn tay, cẳng tay, cánh tay có phân bố hoàn toàn giống kinh chính Tâm bào.

Lộ trình kinh cân Tâm bào ở thân có phân bố rộng hơn kinh chính ở thành ngực, các xương sườn cùng bên và sườn 12 bên đối diện, và chấn thủy (khác với kinh chính Tâm bào).

Kinh cân Tâm bào hợp với kinh cân Phế và kinh cân Tâm tại huyệt uyên dịch.

KINH CÂN TÂM

Lộ trình đường kinh

Xuất phát từ góc ngoài gốc ngón út (thiếu thương), theo kinh chính lên cạnh trong khuỷu chạy lên đến vùng dưới nách ở huyệt uyên dịch, từ đây đi vào trong lồng ngực chạy theo đường giữa đến tâm vị rồi đến rốn.

Triệu chứng rối loạn của đường kinh

Do nguyên nhân bên trong: đau lồng ngực làm cản trở vận hành khí huyết dẫn đến triệu chứng “u” vùng thượng vị kèm triệu chứng buồn bã, đau ở rốn và cảm giác bị nhức ở cùi chỏ và cổ tay.

Do bên ngoài: đau cứng cơ dọc theo đường kinh.

Thiên 13 sách Linh khu: “Nếu gây bệnh, nó (thủ thiếu âm) sẽ làm cho gân bên trong co rút, tiếp nhận lấy bệnh phục lương , xuống dưới làm cho khuỷu tay như bị một màn lưới co kéo”.

Nếu gây bệnh, thì nó sẽ làm cho con đường mà nó đi qua sẽ bị chuyển cân, cân bị thống”.

Chú thích: phục có nghĩa là cái gì đó núp dưới tâm, rồi vươn dài tới rốn như bắc một chiếc cầu nối liền hai vùng, cho nên mới gọi là phục lương (Du Thượng Thiện chú giải).

KINH CÂN TÂM

Lộ trình kinh cân Tâm ở bàn tay, cẳng tay, cánh tay có phân bố hoàn toàn giống kinh chính Tâm.

Lộ trình kinh cân Tâm ở thân có phân bố đến dưới nách (huyệt uyên dịch) và rốn (khác với kinh chính Tâm bào).

Kinh cân Tâm hợp với kinh cân Phế và kinh cân Tâm bào tại huyệt uyên dịch

KHẢO SÁT HUYỆT HỘI 3 KINH CÂN ÂM Ở TAY

Huyệt uyên dịch (liên sườn 5, nách giữa) sẽ phản ứng khi 3 đường kinh cân âm ở tay có bệnh.

Nếu một trong 3 đường kinh bị bệnh, các triệu chứng sẽ khác nhau ở vị trí đau lan.

Ví dụ:

Đau nách kèm đau ở ngực không định được ở hố thượng đòn đau vai kèm tức ngực: bệnh ở kinh cân Phế.

Đau nách kèm đau định được ở hạ sườn, ở ngực: bệnh ở kinh cân Tâm bào.

Đau nách kèm đau bụng, ngực (đặc biệt vùng trên rốn) kèm triệu chứng có “u” ở thượng vị: bệnh ở kinh cân Tâm.

Bài trướcBệnh thoát vị đĩa đệm cột sống
Bài tiếp theoBệnh Gan nhiễm mỡ

BÌNH LUẬN

Nhập nội dung bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.