Giải phẫu, mô phôi ống dẫn tinh
Ống dẫn tinh có nguồn gốc bào thai từ trung thận (mesonephris). Trên người trưởng thành, ODT dài khoảng 30-35 cm, đường kính ngoài l,5-2mm, lòng ống 0,3-0,5mm, bắt đầu từ đuôi mào tinh kết thúc bới ông phóng tinh sát tiền liệt tuyến (7),(8),(81),(113). Đỗ Xuân Hợp(7). Lich.R.Jr. et al.(1978)(85) chia ống dãn tinh thành 5 đoạn:
- Đoạn trong bao trắng của mào tinh.
- Đoạn trong bìu.
- Đoạn trong ống bẹn.
- Đoạn sau phúc-mạc hoặc phần chậu.
- Đoạn bóng.
Ống dẫn tinh nhận máu từ động mạch tinh dưới (59),(72). Thần kinh, gồm hệ giao cảm và phó giao cảm, sợi giao cảm xuất phát từ các sợi của thần kinh hạ vị, theo đường thần kinh trước xương cùng đi vào nằm trong cả 3 lớp vỏ áo của ống dẫn tinh (18),(103).
Cắt ngang ống dẫn tinh, lớp ngoài cùng là mô liên kết có nhiều mạch máu và sợi thần kinh nhỏ. Lớp giữa là cơ, cơ vòng ở giữa, lớp trong và ngoài là cơ dọc. Lớp trong cùng là biểu mô giả tầng, chiều cao biểu mô giảm dần theo độ dài của ống, các nếp niêm mạc càng về phần bàng quan càng phức tạp. Sự phức tạp của các lớp cơ, thần kinh đặc biệt giàu adronegic, sự khác nhau của tế bào biểu mô và đặc tính cấu trúc thay đổi từ đẩu gần tới đầu xa nói lên rằng ống dẫn tinh không đơn thuần chỉ là ống nhỏ vận chuyên thụ động tinh trùng từ mào tinh tới túi tinh (60)(88).
Chức năng ống dẫn tinh
- Chức năng vận chuyển tinh trùng
Có rất nhiều giả thuyết giải thích quá trình vận chuyển tinh trùng của ống dẫn tinh người (Batra and Lamer, 1976;Gunhaetal.. 1975; Neaves. 1975). Prins và Zaneveld (1979; 1980a; 1980b) nghiên cứu về vận chuyển tinh trùng qua ống dẫn tinh thỏ tại thời điểm nghỉ ngơi, sau khi kích tích tình dục và xuất tinh. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, trong giai đoạn nghỉ ngơi ngay ra sau xuất tinh, tinh trùng vãn di chuyển vào niệu đạo với số lượng ít và khoảng cách giữa các lần xảy ra không đều. Thực nghiệm này làm sáng tỏ giả thuyết cho ràng niệu đạo là nơi để tinh trùng dư thừa thoát khỏi mào tinh, ý nghĩa sâu xa hơn là khi kích thích giao hợp, tinh trùng được chuyển từ đuôi mào tinh và ống dẫn tinh đầu gần tinh hoàn theo hướng ống dẫn tinh đầu xa. Nếu hiện tượng phóng tinh sẩy ra tinh trùng sẽ được đẩy vào niệu đạo.
Sau khi kích thích tình dục hoặc xuất tinh, xảy ra hiện tượng thích thú. Các thành phần trong ống dẫn tinh được đẩy lùi về hướng mào tinh đầu gần, kể cả vào trong đuôi mào tinh do đầu xa của ống dẫn tinh co thắt với cường độ rất mạnh, thông thường hiện tượng này kéo dài hơn ở đầu ống dẫn tinh gần tinh hoàn (Prins và Zaneveld, 1980b). Vấn đề rõ hơn khi quá trình không giao hợp kéo dài và có hiện tượng dư thừa tinh trùng trong đuôi mào tinh, hiện tượng này xảy ra hàng ngày khi tinh trùng được sản xuất và chuyển vận tới đầu xa. Kết quả thực nghiệm chỉ ra ràng, ống dẫn tinh thỏ không chỉ vận chuyển tinh trùng trong khi hoạt động tình dục, mà còn duy trì một lượng tinh trùng dự trữ trong mào tinh.
Hấp thu và chế tiết
Trên cơ sở tiêu chuẩn về hình thái học, người ta cho rằng ống dẫn tinh có 2 chức năng hấp thu và chế tiết (Hoffer, 1976; Paniagua et al.. 1981). Tuy vậy vẫn chưa có thực nghiệm trên người để xác nhận ý kiến này. Hoffer (1976); Paniagua et al.. (1981) báo cáo rằng các tế bào chính trong ống dãn tinh người có đặc tính của tế bào có khả năng tổng hợp và chế tiết glycoprotein.
Gupta và cộng sự (1974); Benett và cộng sự (1974) nhận thấy ống dãn tinh chuột cũng tổng hợp và chế tiết glycoprotein vào trong lòng ống. Friend và Farquhar (1967) đã chứng minh được khả năng hấp thu protein trong lòng ống dãn tinh. Cooper và Hamilton (1977) đã chỉ ra vùng cuối của ống dãn tinh chuột có khả năng thực bào và hấp thu tinh trùng
Cấu trúc và chức năng của ống dẫn tinh phụ thuộc vào kích thích androgen (43). Vì:
- Ống dẫn tinh người chuyển testosteron thành dihydrotestosteron.
- Khi động vật bị thiến thì ống dẫn tinh bị teo đi, nhưng ngay sau thiến điều trị bằng liệu pháp testosteron thì ống dẫn tinh không teo nữa.
- Sự đáp ứng với a-adrenergic cũng như (3-adrenergic kích thích co thắt ống dẫn tinh chuột bị thay đổi sau thiến và hoặc điều trị bàng testosteron.
Túi tinh hợp với ống tinh tại vị trí cuối của ống tinh, nơi có bóng ống tinh. Từ đoạn này trở đi, ống tiến vào tiền liệt tuyến, mở vào niệu đạo tiền liệt tuyến. Đoạn đi qua tiền liệt tuyến gọi là ống phóng tinh. Lớp niêm mạc của ống phóng tinh tương tự như lớp niêm mạc của bóng ống tinh nhưng không có lớp cơ.
- Các tuyến phụ thuộc
Các tuyến phụ thuộc gồm có túi tinh, tuyến tiền liệt và tuyến hành hang.
- Túi tinh
Có 2 túi tinh, mỗi ống tinh là một ống dài 15 cm, ngoằn ngoèo, cuộn thành nhiều vòng. Chúng không phải là bể chứa tinh trùng. Nhìn trên thiết đồ, ở cùng một ống ta có thể thấy nhiều đoạn ống xếp theo các hướng khác nhau. Lớp niêm mạc gấp nếp của ống có cấu tạo là biểu mô trụ giả tầng, biểu mô này thay đổi trên từng cá thể, tuỳ thuộc vào tuổi và các điều kiện khác nhau. Biểu mô gồm có một lớp không liên tục. Các tế bào đáy hình tròn và lớp tế bào vuông bề mặt cao hơn hoặc các tế bào trụ thấp, loại tế bào này có nhiều hạt chế tiết. Các tế bào này có đặc điểm siêu cấu trúc của tế bào tổng hợp portein. Lớp đệm của túi tinh chứa nhiều sợi chun và bao quanh bởi một lớp cơ trơn mỏng (hình 3.16). Chất tiết nhớt, vàng nhạt của túi tinh chứa lượng fructose có nồng độ cao, cũng như citrate, inositol, prostaglandin và một số protein. 70% tinh dịch của người có nguồn gốc từ túi tinh. Chiều cao các tế bào biểu mô của túi tinh và mức độ hoạt động của quá trình chế tiết phụ thuộc vào testosteron. Nếu không có testosteron thì biểu mô của túi tinh sẽ bị teo và tình trạng này có thể được phục hồi khi điều trị bằng testosteron.