Thụ thai là sản phẩm của hiện tượng kết hợp giữa tinh trùng và noãn trưởng thành, quá trình thường xảy ra tại 1/3 ngoài của vòi trứng, sau đó phôi mới di chuyển vào buồng tử cung và làm tổ tại đây. Từ khi làm tổ, phát triển hoàn chỉnh đến lúc được sinh ra, bào thai nằm trong môi trường cơ thể người mẹ, nơi chứa đầy tiềm ẩn khả năng miễn dịch. Tuy bào thai là “vật lạ” đối với cơ thể, nhưng hiện tượng miễn dịch đã không xảy ra, sở dĩ có hiện tượng này là do sự chấp nhận miễn dịch của cơ thể người mẹ đối với thai nhi.
Miễn dịch (immunity) là khả năng của cơ thể nhận ra và loại bỏ các vật lạ. Trên người, đáp ứng miễn dịch có thể tạm chia làm hai loại: Miễn dịch tự nhiên và miễn dịch thu được
Miễn dịch tự nhiên (native immunity; natural immunity) hay miễn dịch không đặc hiệu (non-specific immunity) là khả năng tự bảo vệ sẵn có từ lúc sơ sinh, mang tính di truyền. Nói cách khác,đó là khả năng tự bảo vệ do những cơ chế không đặc hiệu cho nên không đòi hỏi phải có tiếp xúc trước của cơ thể với vật lạ (không cần phải có giai đoạn mẫn cảm). Cơ chế này hoạt động ngay dù kháng nguyên xâm nhập lần đầu hay các lần sau, do đó nó giữ một vai trò quan trọng khi cơ chế miễn dịch thu được chưa phát huy tác dụng. Nếu không có miễn dịch tự nhiên thì sinh vật khó tồn tại trước sự tấn công của các sinh vật khác có sức sống mãnh liệt hơn
Miễn dịch thu được (acquired immunity), hay miễn dịch đặc hiệu (specific immunity) là trạng thái miễn dịch xuất hiện khi cơ thể đã tiếp xúc với kháng nguyên và có phản ứng sinh ra kháng thể đặc hiệu chống lại chúng. Miễn dịch thu được có hai đặc điểm khác cơ bản miễn dịch tự nhiên là khả năng nhận dạng và trí nhớ đặc hiệu về kháng nguyên.
Kháng thể chống tinh trùng (antisperm antibodies) là loại kháng thể đặc hiệu tinh trùng.
Tinh trùng trưởng thành chỉ xuất hiện ở trẻ nam tuổi trưởng thành (12-14), và như vậy nó là kháng nguyên đối với cơ thể trong tinh hoàn có hàng rào máu-tinh hoàn (Blood-Testis barrier) và phức hợp liên kết, chúng biệt lập tiền tinh trùng và tinh trùng trưởng thành phía ngoài hàng rào, tinh nguyên bào và tinh trùng non phía trong hàng rào. Như vậy tinh trùng trưởng thành hoàn toàn cách biệt với hệ thống miễn dịch. Vì nguyên nhân nào đó gây thương tổn hàng rào máu -tinh hoàn, làm cho tinh trùng và các sản phẩm thoái hoá của nó xuất hiện trong máu sẽ phát động hệ thống miễn dịch sinh kháng thể chống tinh trùng.
Kháng thể chống tinh trùng có thể tác động đến sinh sản bằng cách bất động tinh trùng (spermimmobilization) hoặc kết dính tinh trùng (spermagglutination). Khi giao hợp tinh trùng sẽ nằm trong âm đạo mà không di chuyển vào buồng tử cung và vòi trứng, đồng thời khả năng xâm nhập qua màng pellucid của trứng của tinh trùng cũng giảm, chính vì vậy mà tỷ lệ thụ thai sẽ giảm đi. Khi kháng thể chống tinh trùng trong huyết tương người đàn ông có hiệu giá cao thì hiện tượng này càng rõ, đặc biệt hiệu giá 1/1054 thì vô sinh hoàn toàn. Đây là vô sinh do kháng thể chống tinh trùng. Tỷ lệ có kháng thể chống tinh trùng trong máu nhóm vô sinh nam chiếm tỷ lệ 1-6%.
Có rất nhiều nguyên nhân hình thành kháng thể chống tinh trùng như tật tinh hoàn ẩn, varicocele, chấn thương đường sinh dục, hành vi giao hợp bất thường (qua hậu môn, đường miệng) … nhưng nguyên nhân phổ biến và chiếm hàng đầu là thắt ống dẫn tinh triệt sản (vasectomy).
Có nhiều kỹ thuật xác định các Immunoglobulin chống tinh trùng: kỹ thuật ngưng kết tinh trùng, kỹ thuật ELISA, kỹ thuật gắn hạt miễn dịch và kỹ thuật huỳnh quang…
Điều trị vô sinh do yếu tố miễn dịch có nhiều phương pháp như: dùng thuốc ức chế miễn dịch, lọc rửa tinh trùng sau đó sử dụng phương pháp hỗ trợ sinh sản: Bơm tinh trùng vào buồng tử cung (Intra-Uterine-Insemination: IUI); Thụ thai ống nghiệm (In vitro Fertility-IVF), Bơm tinh trùng vào tương bào noãn (Intra- Cytoplasmic Spem Injection-ICSI) đã thu được nhiều kết quả khả quan.