Tình dục đồng giới là xu hướng và sở thích quan hệ tình dục với người cùng giới. Đây là một loại bệnh hướng về tình dục (sexual deviation) hay gặp hơn các thể loại khác. Tần số của tình dục đồng giới khó được biết chính xác, vì có sự dè dặt tự nhiên của những người có tình dục đồng giới. Theo Kinsey A.c (1948), tần số tình dục đồng giới ở Mỹ là 4%. Tuy nhiên, tùy theo phong tục tập quán của từng nước, các số liệu thống kê có sự khác biệt đáng kể. Các thành phần xã hội khác nhau trong mỗi nước cũng có những tỷ lệ khác nhau. Ở Việt Nam, hiện nay chưa có một cuộc điều tra nào, nhưng lẻ tẻ ở các phòng khám, trực tiếp hay bằng thư từ, có những yêu cầu về các lời khuyên khám chữa bệnh về tình dục đồng giới.

Tình dục đồng giới không phải là một loại bệnh lý về tâm thần. Năm 1973 Hội tâm thần Hoa Kỳ đã loại tình dục đồng giới ra khỏi danh sách các bệnh tâm thần (Stein, 1993). Người có tình dục đồng giới dù thuộc nam giới hay nữ giới đều cần được xã hội và thầy thuốc quan tâm và thông cảm, để có được sự giúp đỡ về tâm thần cũng như về một số bệnh lý có thể mắc phải.

Chúng tôi sẽ lần lượt trình bày các mục sau đây:

  • Tình dụng đồng giới qua các thời kỳ.
  • Các biểu hiện lâm sàng.
  • Tim hiểu các nguyên nhân.
  • Các bệnh lý cần chú ý trong phòng bệnh và điều trị trong quan hệ tình dục đồng giới.
  • Thái độ điều trị.

Tình dục đồng giới qua các thời kỳ

Trong thời đại cổ Hy Lạp, tình dục đồng giới có xu hướng khá thịnh hành trong giới quý tộc, đặc biệt ở nam giới. Vì thời bây giờ nữ giới bị coi như thành phần thấp bên trong xã hội, nên sử sách ít đề cập đến. Tuy nhiên theo truyền thuyết, vào thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên, ở hòn đảo Lesbos của Hy Lạp, có nữ thi sĩ trữ tình tên là Sappho được biết đến như một người có tình dục đồng giới. Ảnh hưởng của xu hướng tình dục đồng giới của Hy Lạp nhanh chóng lan sang các nước láng giềng là Ba Tư và đế quốc La Mã.

Phản ứng lại với xu hướng trên, Đạo Thiên chúa cấm đoán một cách nghiêm khắc mọi hành vi tình dục đồng giới, được thể hiện trong Cựu ước (Levetique, XX, 3, Rom, 1, 26). Đến thời Trung cổ, Giáo hội còn ban bố luật hành hình những người có tình dục đồng giới và vào giữa thế kỷ thứ 18, họ còn bị thiêu sống ngay giữa thành phố Paris. Bộ luật Cách mạng Pháp năm 1789 có nới lỏng các quy định về hình sự, nhưng chú ý bảo vệ các vị thành niên. Bộ luật Napoleon (1810) cũng bao hàm nội dung trên và được nhiều nước khác noi theo. Hiện nay nhiều nước trên thế giới đã có bộ luật riêng và thường cấm đoán các hành vi tình dục đồng giới xâm phạm đến vị thành niên cả hai giới.

Năm 1973, Hội tâm thần Hoa Kỳ không gọi tình dục đổng giới là một bệnh tâm thần và cho là một sự “lệch hướng về tình dục”. Hội khuyến cáo nếu có thái độ quan tâm đến người có tình dục đồng giới, lắng nghe ý kiến của họ và giúp đỡ họ phòng tránh các bệnh có thể xảy ra.

Biểu hiện lâm sàng của tình dục đồng giới

Theo Kinsey (1948), tần số người có tình dục đồng giới ở Hoa Kỳ là 4%. Tuy nhiên các nhà khoa học khi nghiên cứu trên các người có xu hướng và hành vi tình dục đồng giới, thấy cần phân tích 3 yếu tố riêng biệt là: ý thức, ham muốn và hành vi. 3 yếu tố này liên quan với nhau. Tuy nhiên, có khi vì cảm hứng, hoặc có thể có ham muốn trong chốc lát, hoặc có hành vi trong hoàn cảnh nhất định, mà không có ý thức thật sâu sắc. Hiện tượng này có thể xảy ra trong bối cảnh chiến tranh, trong nhà tù hay giữa các vị thành niên.

Gagnon và Simon (1973) nghiên cứu trên số liệu lớn hai nhóm người có tình dục đồng giới nam và nữ dưới 30 tuổi và nêu lên các tỷ lệ như sau:

Ở nam giới tỷ lệ người có quan hệ tình dục đồng giới một vài lần là 30%, nhiều lần là 3% và thường xuyên là 3%. Đối với nữ giới, tỷ lệ người có quan hệ tình dục đồng giới một vài lần là 6%, nhiều lần là 2% và thường xuyên là 1%.

Tinh dục đồng giới khác với trạng thái tự cho bản thân thuộc giới khác (transsexualism) và cũng khác với trạng thái tự cải trang quần áo để biểu lộ thành giới khác (Transvestism). Trong trường hợp thứ nhất, một người hoàn toàn bình thường về giải phẫu và sinh học nhưng tự cho bản thân thuộc giới khác và tìm cách thực hiện ý định chuyển giới bằng các biện pháp phẫu thuật và sinh hóa. Trong trường hợp thứ hai, một người bình thường là nam giới chỉ thích mặc quần áo khác giới để thấy cảm xúc tình dục.

Những người tình dục đồng giới thường sống với nhau từng đôi một hoặc có thể có quan hệ rộng rãi hơn. Không ít đôi sống chung với nhau khá chung thủy và để gắn bó thêm tình cảm, họ có thể chấp nhận thêm con nuôi. Quan hệ giữa những người tình dục đồng giới là những tình cảm lãng mạn và hành vi tình dục theo sự sáng tạo của họ để thỏa mãn cả hai người. Trong tâm tư, họ có thể có những suy nghĩ, lo âu, buồn phiền do sự tò mò hay dị nghị của những người khác. Vì vậy người thầy thuốc cần hiểu rõ các khía cạnh của tình dục đồng giới để có những lời khuyên giúp đỡ họ.

Tìm hiểu các nguyên nhân của tình dục đồng giới

Các nhà khoa học đã bỏ công sức tìm hiểu các yếu tố về thể chất của những người tình dục đồng giới.

Các hằng số nhân chủng học của cả hai giới nam và nữ được đem ra so sánh giữa quần thể người có tình dục bình thường và người tình dục đồng giới. Các chỉ số về chiều cao, cân nặng, tỷ lệ giữa đường kính hai mỏm cùng vai và đường kính khung chậu, chiều dài của xương đùi, hệ lông tóc v.v đều không có gì khác biệt giữa hai quần thể.

Các định lượng về nồng độ các hormon trong máu và các thực nghiệm lâm sàng dùng androgen hay estradiol cũng chứng tỏ không có sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm. Những nghiên cứu về nhiễm sắc thể gần đây giữa hai nhóm cũng không mang lại kết quả gì.

Khuynh hướng chung hiện nay là có nhiều yếu tố dẫn đến tình dục khác giới cũng như tình dục đồng giới. Ngoài các yếu tố sinh học, phải kể đến cái yếu tố tâm lý xã hội, kể cả tiềm thức của con người.

Một trong những lý thuyết được quan tâm nhiều nhất là sự phân tích tâm tính dục (psychosexuality) của nhà phân tâm thần học Sigmund Freud (1856-1939) (psychodualỵtic theory). Theo Freud, “phức hợp Ơ đíp”có thể giải thích các hiện tượng tình dục đồng giới, Ơ đíp, người anh hùng huyền thoại Hy Lạp, con vua Laios của thành Thebơ và bà Focast. Khi vua nghe lời sấm truyền là sẽ bị Ơ đíp giết hại để chiếm đoạt bà Focast, thì đem vứt bỏ Ơ đíp trên một ngọn núi. Đến lúc trưởng thành, Ơ đíp đi tìm hiểu nguồn gốc của mình. Dọc đường, vô tình giết một người qua đường vì có sự bất bình và chính người đó là Laios. Sau khi trả lời đúng câu đố của một con yêu quái và đuổi nói đi. Ơ đíp được dân chúng tôn lên làm vua thành Thebơ và cưới bà Focast, chính vì là mẹ mình, Ơ đíp đau khổ về số phận của mình, tự đâm chột hai mắt của mình và đi lang thang khắp nước.

Liên hệ với phức hợp Ơ đip, Freud giải thích như sau: Con trai vì quá lo sợ đã yêu mẹ mình một cách dục tính nên đã quay trở lại yêu những người đồng giới. Hoặc cậu con trai ấy vì quá yêu mẹ, nên mang nữ tính của mẹ và bắt đầu yêu những người đồng giới của mình.

Đối với phụ nữ tình dục đổng giới, Freud giải thích như sau: Cô con gái vì không thể yêu bố mình theo dục tính nên quay lại yêu mẹ mình, nghĩa là đổng giới nữ. Bực tức vì không có dương vật, cô con gái muốn tỏ ra bản thân cũng như nam giới, như bố mình và yêu những người đồng giới nữ.

Bên cạnh lý thuyết phân tâm thần học của Frend, còn có lý thuyết học hỏi (learning theory), nhấn mạnh đến tác động của phần thưởng và hình phạt và các ảnh hưởng của môi trường lên sự lựa chọn về tình dục. Theo lý thuyết này, có nhiều người tình dục đồng giới đã chịu ảnh hưởng một bối cảnh không khí gia đình phức tạp và họ gặp khó khăn trong xác định giới tính của bố mẹ. Ví dụ người có tình dục đồng giới nam có thể đã được chăm sóc bởi một bà mẹ vừa quá âu yếm, vừa quá răn đe, hoặc sống bên cạnh một người cha vừa xa cách lại vừa hay trừng phạt. Tương tự như các lý thuyết về xã hội học, tác động môi trường văn hóa trong gia đình ảnh hưởng lớn đến tâm tư tình cảm của các thành phần trong gia đình.

Các bệnh lý thường gặp trong quan hệ tình dục đồng giới

Nhìn chung các bệnh lý thường gặp trong quan hệ tình dục đồng giới cũng là những bệnh lý gặp trong quan hệ tình dục khác giới. Tuy nhiên có một số bệnh cần chú ý phát hiện và điều trị trong quan hệ tình dục đồng giới.

  • Đối với nữ giới có tình dục đồng giới

Các đối tượng này ít có nguy cơ mắc các bệnh giang mai, lậu, Chlamydia, virus Erpes, virus Papillomavirus, HIV cho các phụ nữ có quan hệ tình dục khác giới. Nhưng phụ nữ tình dục đồng giới dễ mắc viêm âm đạo do vi khuẩn (Bactenial Vaginosis). Cần chú ý là khả năng nhiễm HIV ở các đối tượng ấy sẽ tăng lên nếu đồng thời sử dụng ma túy hay có quan hệ với nam giới lưỡng giới (bisexual), nghĩa là vừa có quan hệ tình dục đồng giới vừa có quan hệ tình dục khác giới.

Các bệnh ung thư vú và ung thư buồng trứng cũng ít gặp hơn các phụ nữ có tình dục khác giới, vì nguy cơ nhiễm HIV các bệnh lây qua tình dục ít gặp hơn. Ung thư cổ tử cung cũng ít gặp hơn phụ nữ có tình dục khác giới vì không có tiếp xúc với tinh trùng.

  • Đối với nam giới có tình dục đồng giới

Chúng ta đều biết là HIV và AIDS rất hay gặp trong nhóm người nam giới có tình dục đồng giới. Ngay năm 1994, có 34974 trường hợp mới nhiễm AIDS trong nhóm người này tại Hoa Kỳ, đưa tần số mắc bệnh lên 35% – 50% từ 1981 (Kelly, 1992). Đặc biệt khi dùng ma túy kèm theo, nguy cơ nhiễm HIV càng cao. Viêm gan HBV và HCV cũng hay gặp. Nguy cơ bị ung thư hậu môn cũng rất lớn. Năm 1992, các thống kê cho thấy nguy cơ tương đối của ung thư hậu môn sau khi có chẩn đoán AIDS ở những người tình dục đồng giới nam là 84/1 so với người bình thường. Năm 1982, một công trình cho thấy tần số ung thư hậu môn trực tràng ở người tình dục đồng giới nam là 25 đến 50 lần cao hơn so với người có tình dục khác giới. Sau cùng, viêm niệu đạo và viêm trực tràng do giang mai, lậu, Chlamydia rất phổ biến.

Về tâm thần, những người tình dục đồng giới thường hay mặc cảm, sợ bị xa lánh, đặc biệt khi nhiễm HIV. Một số trở thành nghiện ma túy, uống rượu, hút thuốc. Các thanh thiếu niên càng dễ hoang mang, có khi có ý định tự tử.

Thái độ điều trị

Người thầy thuốc cần tìm hiểu hoàn cảnh, lắng nghe ý kiến và có những lời khuyên thích hợp và hữu ích, sau khi phân tích cụ thể từng hoàn cảnh của người đến khám. Có những báo cáo có sự thuyên giảm hay mất hẳn các triệu chứng của tình dục đồng giới trên 1/3 hay 1/2 số người đến khám. Người thầy thuốc cần khám các bệnh có thể mắc phải và điều trị có hiệu quả. Sau cùng các thuốc bình thản, an thần cũng có vai trò trong điều trị các rối loạn tâm thần.

KẾT LUẬN

Tình dục đồng giới không phải là một bệnh lý về tâm thần, mà phải được coi như một sự lệch hướng về tình dục. Nguyên nhân của tình dục đồng giới do nhiều yếu tố, trong đó có các yếu tố tâm lý gia đình và xã hội có vai trò quan trọng. Người thầy thuốc cần có thái độ quan tâm, thông cảm, tìm hiểu hoàn cảnh của người đến khám để tìm ra biện pháp giúp đỡ thích hợp, song song với việc điều trị các bệnh lý có thể gặp. Với sự giúp đỡ của thầy thuốc, người có tình dục đồng giới có điều kiện tạo cho mình một cuộc sống có chất lượng tốt hơn.

BÌNH LUẬN

Nhập nội dung bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.