Căn nguyên gây bệnh loét sinh dục phổ biến nhất ở Mỹ là Virus herpes simplex. Virus herpes simplex được phân ra 2 loại Virus herpes simplex-1 và Virus herpes simplex-2, trong đó, 70-90% bệnh loét sinh dục do Virus herpes simplex-2. Tại Mỹ có hơn 30 triệu người nhiễm bệnh, đa số không có triệu chứng. Không có cách chữa khỏi bệnh và bệnh có thể tái phát. Virus herpes simplex lây truyền qua tiếp xúc trực tiếp với các chất tiết hoặc nơi chế nhày bị nhiễm virus. Sau khi tiếp xúc, thời kỳ ủ bệnh kéo dài khoảng 2-20 ngày, sau đó, nhiễm trùng tiên phát xảy ra. Sau nhiễm trùng tiên phát là giai đoạn nhiễm trùng tiềm tàng ở phần rễ lưng hạch sao của tế bào thần kinh. Nhiễm trùng tái phát là do tái hoạt động của virus tiềm ẩn.

Biểu hiện lâm sàng

Nhiễm trùng tiên phát

Nhiễm trùng tiên phát do Virus herpes simplex thường nặng. Bệnh nhân có tiền triệu như: mệt mỏi, sốt, đau đầu, đau cơ và dị cảm sinh dục, tiếp theo là sự bùng phát nhiều mụn nước đau, trợt và loét. Những biểu hiện không điển hình không gây loét do Virus herpes simplex gồm dò, nhọt, trầy xước và xuất hiện hồng ban âm hộ không điển hình. Những đợt bùng phát mới xảy ra trong tuần thứ hai của nhiễm trùng và đi kèm với nổi hạch bẹn to, đau. Các tổn thương ở nam tìm thấy ở các tuyến, bao quy đầu và thân dương vật. Các tổn thương ở nữ xuất hiện tìm thấy ở vùng đáy chậu, âm hộ và cổ tử cung. Sự liền sẹo diễn ra trong vòng 3 tuần. Nam và nữ quan hệ tình dục bằng đường hậu môn có thể bị viêm trực tràng do Virus herpes simplex với biểu hiện đau hậu môn trực tràng, mót rặn và tiết dịch trực tràng. Các biến chứng của nhiễm trùng Virus herpes simplex tiên phát gồm: viêm màng não vô khuẩn, bí đái, tổn thương da ngoài bộ phận sinh dục, tổn thương da lan toả, bội nhiễm vi khuẩn, hồng ban đa dạng và sảy thai tự nhiên.

Nhiễm trùng tái phát

Các đợt tái phát do Virus herpes simplex thường nhẹ, khu trú hơn và thời gian ngắn hơn đợt tiên phát. Tiền triệu gồm ngứa, và rát bỏng xuất hiện từ 2-48 giờ trước khi các tổn thương da bùng phát. Trong giai đoạn tiền triệu, bệnh nhân không có các tổn thương da hoạt động nhưng có thể lây truyền các hạt virus, vì thế có khả năng lây nhiễm. Phụ nữ có thể tiết dịch âm đạo và đái khó. Các tổn thương thường tái phát ở vị trí gặp trong nhiễm trùng tiên phát và liền trong vòng 2 tuần. Không có biểu hiện triệu chứng toàn thân và các biến chứng do nhiễm trùng tiên phát.

Chẩn đoán

Chẩn đoán nhiễm trùng do Virus herpes simplex dựa vào tiền sử, các dấu hiệu thực thể và đánh giá xét nghiệm. Nuôi cấy vẫn là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán Virus herpes simplex mặc dù 20-30% trường hợp nuôi cấy cho kết quả âm tính trong khi có nhiễm trùng. Tốt nhất là nuôi cấy trong vòng 7 ngày bùng phát nhiễm trùng tiên phát và trong vòng 2 ngày của đợt tái phát. Bệnh phẩm nên lấy từ mụn nước còn nguyên vẹn. Các tổn thương khô, đóng vảy cho kết quả kém hơn. Phiến đồ Tzanck hoặc Pap có tác dụng hỗ trợ cho chẩn đoán lâm sàng. Lấy bệnh phẩm ở đáy mụn nước hoặc vết loét rồi đem nhuộm Wright, Giemsa hoặc

Papanicolaou. Soi kính hiển vi thấy các tế bào khổng lồ nhiều nhân nhiễm Virus herpes simplex. Tuy nhiên, phiến đồ Tzanck không thể phân biệt giữa nhiễm trùng do Virus herpes simplex và herpes zoster. Hơn nữa, kết quả phiến đồ âm tính không thể loại trừ nhiễm trùng. Những biện pháp chấn đoán thay thế nuôi cấy gồm: xét nghiệm huỳnh quang miễn dịch, peroxidase miễn dịch và phát hiện kháng nguyên bằng EIA mặc dù các xét nghiệm này được cho là kém nhạy hơn, trừ các tổn thương giai đoạn muộn (26,29). Huyết thanh học không thể phân biệt nhiễm trùng do Virus herpes simplex cấp tính với nhiễm trùng có từ trước.

Điều trị

Điêu tri nhiễm herpes sinh dục giai đoạn lâm sàng đầu tiên bằng :

Acyclovir (Zovirax) 200 mg, uống 5 lần/ngày trong 7-10 ngày hoặc đến khi khỏi về lâm sàng

Điều trị viêm trực tràng do herpes giai đoạn lâm sàng đầu tiên bằng :

Acyclovir (Zovirax) 400 mg, uống 5 lần/ngày trong 10 ngày hoặc đến khi khỏi về lâm sàng

Điều trị các đợt tái phát, trong giai đoan tiền triêu hoác trong vòng 2 ngày khi tôn thương bùng phát, như sau:

  • Acyclovir (Zovirax) 200 mg, uốhg 5 lần/ngày trong 5 ngày hoặc
  • Acyclovir (Zovirax) 400 mg, uống 3 lần/ngày trong 5 ngày hoặc
  • Acyclovir (Zovirax) 800 mg, uống 2 lần/ngày trong 5 ngày hoặc
  • Valacyclovir (Valtrex) 500 mg, uống 2 lần/ngày trong 5 ngày hoặc
  • Famciclovir (Famvir) 125 mg, uerng 2 lần/ngày trong 5 ngày.

Điều trị ức chế hàng ngày cho những bệnh nhân tái phát trên 6 lần mỗi năm có thể có hiệu quả. Điều trị ức chế không làm giảm sự lây lan virus hoặc không loại trừ được khả năng lây truyền.

Điều trị đợt tái phát thường xuyên với liêu pháp ức chê như sau:

  • Acyclovir (Zovirax) 400 mg, uống 2 lần/ngày hoặc
  • Acyclovir (Zovirax) 200 mg, uống 3-5 lần/ngày

Liều thấp nhất giúp làm giảm các đợt tái phát thường xuyên cần được xác định và duy trì. Sau 1 năm điều trị ức chế, ngừng sử dụng acyclovir để đánh giá lại tỷ lệ tái phát của người bệnh.

Điều trị bệnh nặng hoặc các biện chứng yêu cầu nhập viện bằng :

Acyclovir (Zovirax) 5-10 mg/kg trọng lượng cơ thể, tiêm tĩnh mạch cứ 8 giờ/lần trong 5-7 ngày hoặc cho đến khi khỏi về lâm sàng.

Phòng bệnh

Các bệnh nhân nhiễm Virus herpes simplex sinh dục cần được khuyên kiêng quan hệ tình dục khi có các tổn thương hoạt động. Tư vấn cho người bệnh rằng kể cả khi không có tổn thương da, virus vẫn tăng sinh mà không có triệu chứng và vẫn có khả năng lây truyền, và họ cần dùng bao cao su trong các lần quan hệ tình dục. Những phụ nữ ở lứa tuổi sinh nở bị nhiễm Virus herpes simplex cần được tư vấn về khả năng nhiễm trùng cho trẻ sơ sinh.

 

BÌNH LUẬN

Nhập nội dung bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.