Khí hư ( đới hạ) là chứng rất thường thấy trong bệnh phụ khoa.

Sự phát sinh có quan hệ chặt chẽ với mạch Nhâm, mạch Đới mà nguyên nhân thường do 5 loại là:

  • Tỳ hư
  • Thấp nhiệt
  • Đàm thấp.
  • Can uất (khắc tỳ thổ)
  • Thận hư (dương khí hao tổn, âm hư hoả vượng)

Biện chứng chú ý 3 phương diện: màu sắc, trong đục, mùi hôi.

Cách chữa: chủ yếu là kiện tỳ thăng dương trừ thấp.

  • Chứng Xích đới là có hoả lấy bổ thận làm trọng.

Chứng Bạch đới hơn Xích đới thì:

+ Nếu Tỳ hư: dùng Lục quân tử thang gia Thăng ma.

+ Nếu Khí hư: dùng Bổ trung ích khí.

+ Nếu Can hư: dùng Bát vị tiêu dao tán kèm thêm Lục vị hoàn.

+ Nếu Can uất hại Tỳ: dùng Bổ trung ích khí gia Táo nhân,Hoàng bá, Thương truật, Mạch môn, Phục linh, Sơn dược, và Lục vị hoàn.

+ Bạch đới mà tỳ thận hư nhiều dùng Ngũ vị tử hoàn, Bát vị hoàn (Xem thê

Vị thuốc Thương truật
Vị thuốc Thương truật

m bài Quy tỳ thang).

+ Nêu âm hư có hoả dùng Bát vị hoàn gia Ngũ vị, Thỏ ty, Xa tiền, Hoàng bá.

+ Ra khí hư nhờn trắng đặc dính dùng Lục long cô bản hoàn, Lục vị bảo nguyên thang làm chủ.

  • Xích Bạch đới đau bụng ăn kém dùng Đương quy tiễn.

Bạch đới, Bạch dâm, Bạch trọc nước đái như nước vo gạo dùng Uy hĩ hoàn, đau bụng vùng rốn dùng Đại hiệu củng thần hoàn,

  • Bạch đới lâu ngày gầy mòn dùng Nhân sâm Hoàng kỳ tán
  • Âm hư hoả thịnh dùng cầm bá thư bi hoàn.
  • Âm hư dương kiệt khí hư hôi tanh dùng Hoàng kỳ kiến trung bỏ Nhục quế gia Đương quy và thêm Khổ luyện hoàn.

Băng lậu mãi, đau quanh vùng rốn lan ra dùng Cố chân hoàn.

Hư hoả dùng Bổ kinh cố chân hoàn, Đại ô kê hoàn.

Con gái chưa chồng, sỢ hãi, bị lạnh bị đới hạ dùng Hổ phách châu sa hoàn.

Có thai ra khí hư do thấp nhiệt dùng cầm truật vu bì hoàn gia Hương phụ.

Sau đẻ mất huyết dùng Ngải phụ noãn cung hoàn gia Phụ tử, Can khương, Ngô thù hoặc Hoàng kỳ kiên trung bỏ Nhục quế gia Đương quy, uống thêm khổ luyện hoàn.

Xem thêm

BỆNH ĐỚI HẠ

Bệnh Đới hạ có phân biệt nghĩa rộng và nghĩa hẹp, theo nghĩa rộng nói tất cả bệnh tật về phụ khoa, vì bộ vị của loại bệnh này đều từ chỗ eo lưng trở xuống, như thiên “Cốt không luận” sách Tố vấn nói: “Nũ tử đới hạ hà tụ” (đàn bà bị bệnh khí hư và kết khối); sách Kim quỹ yếu lược cũng chép: “đới hạ, 36 bệnh”… cũng là ý nghĩa như vậy; bệnh Đới hạ theo nghĩa hẹp, là chỉ nói về một thứ chất dịch nhờn dính hoặc lỏng loãng ở trong âm đạo chảy ra liên miên, cũng là nội dung trình bày ở trong chương này.

Chứng hạ thông thường cũng gọi là Bạch đới, nhưng vì chất dịch chảy ra thường có các màu khác nhau, không phải hoàn toàn là sắc trắng cho nên gọi là Đới hạ thì mới đúng. Các y gia từ trước đến nay đều căn cứ màu sắc mà phân loại, vì rằng nội dung chủ yếu của chứng Đới hạ bao gồm 5 loại là: Bạch đới – Hoàng đới – Xích đới – Thanh đới – Hắc đới. Ngoài ra còn có những chứng Bạch đới có đủ 5 sắc lẫn lộn gọi là Bạch băng, Bạch dâm, Bạch trọc cũng đều xếp vào trong môn Đới hạ, nhưng những chứng bệnh này không những là ít thấy, mà phương pháp biện chứng luận trị cũng giống như chứng Bạch đới, cho nên cũng nói luôn ở đây.

Chứng Đới hạ là chứng thường thấy ở trong phụ khoa, cho nên tục ngữ có câu: “10 người thì có 9 người bị Đới hạ” bệnh này đe doạ sức khoẻ của phụ nữ một cách nghiêm trọng, nhất là về lứa tuổi sắp hết kinh nguyệt mà bị bệnh Đới hạ trong thời gian dài thì cần xét xem có chứng nguy hiểm gì khác. Cho nên Đới hạ ra quá nhiều hoặc thấy có tạp sắc lẫn lộn, hoặc kèm thêm mùi hôi thôi, thì cần phải chú ý đề phòng và chạy chữa cho sớm.

Trong âm hộ của phụ nữ chảy ra một thứ nước trắng mà dính liên miên không dứt, hoặc ra nhiều dầm dề như nước mũi nước bọt, lâu năm không khỏi, chứng trạng đó gọi là Bạch đới, nếu trong Bạch đới có lẫn chất huyết mà đỏ trắng rõ ràng, gọi là Xích bạch đới; nếu đỏ mà dính đặc, giống huyết không phải là huyết, gọi là Xích đới; nếu màu vàng nhợt dính đặc mà hôi hám, gọi là Hoàng đới (khí hư ra như nước chè đặc màu vàng thì trên lâm sàng rất ít thấy). Chứng Bạch đới, trên lâm sàng so với các chứng khác thì nhiều hơn, cho nên nội dung trình bày ở bài này lấy các chứng Bạch đái làm chủ yếu và kết hợp trình bày Hoàng đới và Xích đới. Còn như các chứng Đới hạ khác ít thấy thì lược bớt.

Phụ nữ đến tuổi xuân tinh chớm nở, trong âm đạo liền có ít chất nước chảy ra, thường dâm dấp ướt, đến trước hay sau kỳ kinh và khi mới thụ thai thì chất nước ra lại thêm nhiều, như thế không phải là bệnh. Nếu chất trắng ấy cứ ra liên miên không dứt, mới đúng là chứng Đới hạ. Bệnh này lúc mới phát thường không hay chú ý lắm, nếu để lâu không chữa, thì không những ảnh hưởng đến kinh nguyệt và thai nghén, đồng thời lại làm cho thân thể dần dần suy yếu mà gây nên chứng bệnh trầm trọng. Nếu Đói hạ ra như nước vàng hoặc lẫn lộn cả 5 sắc giống như máu mủ, thường ra không ngớt mà lại nhiều và có mùi hôi thối vê sau phần nhiều thành chứng nguy hiểm, do đó cần phải kịp thời chạy chữa và chú ý đề phòng.

  1. NGUYÊN NHÂN BỆNH

Sự phát sinh chứng Đới hạ có quan hệ chặt chẽ với mạch Nhâm, mạch Đới. Mạch Đới giữ việc ước thúc, mạch Nhâm chủ yếu về bào thai; nếu mạch Đới không ước thúc, mạch Nhâm không củng cố, thuỷ thấp vấn đục chảy xuống mới thành chứng Đới hạ. Còn như nguyên nhân làm cho 2 mạch Nhâm, Đới bị bệnh thì có 5 loại dưới đây:

  • Tỳ hư

Ăn uống, nhọc mệt tổn thương tỳ vị, tỳ dương suy yếu, công năng vận hoá mất bình thường, đến nỗi chất tinh vi của tỳ không đưa lên để làm huyết tốt, ngược lại hoá ra thấp khí mà hãm xuống.

  • Thấp nhiệt

Thấp tà xâm vào, đọng lại mà sinh nhiệt, hoặc uất kết ở mạch Đới, hoặc lấn tỳ khí mà hãm xuống thành ra chứng Hoàng đới.

  • Đàm thấp

Tỳ hư thấp tụ lại thành đờm, đờm và thấp chảy dồn xuống hạ tiêu mà thành bệnh.

  • Can uất

Tình chí không thư thái, can khí uất ở trong, uất lâu hoá ra nhiệt; xuống khắc tỳ thổ, tỳ không hoá được thấp, hãm xuống mà thành Đới hạ.

  • Thận hư

Phòng lao hại thận, dương khí hao tổn, mạch Đới không ước thúc được, mạch Xung, mạch Nhâm không thu nhiếp được, nên tinh dịch trong bào cung chảy ra, nếu phần âm của thận kém thì tướng hoả thịnh bên trong, dẫn đến chỗ âm hư hoả vượng, bức huyết chạy lung tung, mới thành chứng Xích đới.

  1. BIỆN CHỨNG

Phép biện chứng về chứng Đới hạ, thì chú trọng về 3 phương diện, màu sắc, mùi hôi, trong đục, cách phân biệt này đã trình bày trong bài Tang luận, bài này chỉ phân biệt những loại bệnh thường thấy như sau:

  • Chứng tỳ hư

Đới hạ sắc trắng, như nước mũi, nước bọt không có mùi hôi hám, lưng bụng không thấy trướng đau; kinh nguyệt vẫn bình thường, màu da trắng bệch, tinh thần mỏi mệt, tay chân lạnh, đại tiện lỏng, tiểu tiện trong dài hoặc hai chân sưng phù, chất lưỡi bình thường, rêu Iưỡi trắng, mạch hoãn mà nhược.

  • Chứng thấp nhiệt

Đới hạ ra nhiều, kèm có huyết, chất đặc dính mà mùi hôi tanh, đầu xây xẩm mà nặng, hay nhọc mệt, miệng khát không uống nước nhiều, tâm phiền ít ngủ, đại tiện táo bón hoặc lỏng mà không khoan khoái, tiểu tiện đỏ sẻn, hoặc đi luôn mà đau, rêu lưỡi vàng nhờn, mạch nhu sác.

  • Chứng đờm thấp

Thân thể béo mập, Đới hạ chảy ra nhiều, giống như đờm, đầu nặng choáng váng, miệng nhạt và có đờm, trong lồng ngực bứt rứt, bụng trướng, ăn uống sút kém, đờm nhiều hay lợm giọng, thở to, suyễn gấp, chất lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng mà nhớt, mạch huyền hoạt.

  • Chứng can uất

Ra Đới hạ màu hồng nhợt, giống huyết nhưng không phải là huyết, hoặc ra chất trắng đặc dính dầm dề không ngớt, kỳ sinh sớm muộn không chừng, tinh thần uất ức, dưới sườn trướng đầy, miệng đắng họng khô, sắc mặt vàng nhuận, đại tiện bình thường, tiểu tiện vàng, rêu lưỡi vàng trắng lốm đốm, mạch huyền.

  • Chứng thận hư

Ra chất trắng mà lạnh, giống như lòng trắng trứng gà, lâu ngày không dứt, sắc mặt xạm xịt, sức lực mỏi mệt, đại tiện lỏng, tiểu tiện trong dài, lưng đau mỏi như gãy, bụng dưới không đau, rêu lưỡi trắng, chất lưỡi nhợt, mạch trầm tế.

  • Nếu mệnh môn hoả suy thì lưng bụng cảm thấy lạnh, tay chân không ấm, mạch trầm tế mà trì.
  • Thận âm hư mà hoả vượng thì khí hư ra nhiều chất màu đỏ, thân hình gầy yếu, đầu chóng, mắt hoa, tim hồi hộp, ít ngủ, miệng khô trong nóng, lưng mỏi chân yếu, sắc mặt đỏ bừng, lưỡi đỏ, ít rêu, mạch tế sác.
  1. CÁCH CHỮA

Chữa chứng Đới hạ chủ yếu là kiện tỳ, thăng dương, trừ thấp; Hoàng đới thi nên thanh nhiệt, thẩm thấp; Xích đới nên gia thêm thuốc chỉ huyết. Bệnh uất lâu hoá nhiệt hoặc thấp đờm ứ đọng thì chữa theo chứng thực, không nên dùng thứ thuốc béo bổ; nếu tỳ thận hư hao, nên theo hư mà chửa, lúc đầu bổ tỳ thăng dương, tiếp đó ôn thận hư hao, nên theo hư mà chữa, lúc đầu bổ tỳ thăng dương, tiếp đó ôn thận để cố sáp, sau cùng dùng thứ thuốc bằng huyết nhục động vật để bổ mạnh vào kỳ kinh. Còn như người tuổi nhiều sức yếu mà Đới hạ ra như băng sắp thành chứng thoát,lại nên trọng dụng về Sâm, Kỳ, Long cốt, Mẫu lệ để bổ mà cố sáp lại. Tóm lại cần phải nắm vững tình trạng bệnh để biện chứng mà chữa.

Tỳ hư nên kiện tỳ ích khí dùng bài Hoàn đới thang (1) hoặc Phục thổ hoàn (2); thấp nhiệt nên thanh nhiệt trừ thấp, kiêm bố tỳ, dùng bài Dịch hoàng thang (3) gia giảm; đàm thấp thì kiện tỳ, hoá đờm, táo thấp dùng bài Lục quân tử thang (4) gia giảm; can uất thì nên điều can, giải uất kèm thêm thanh nhiệt dùng bài Đơn chi tiêu giao tán (5); nhiệt lắm thì nên thanh can tả nhiệt, dùng bài Long đởm tả can thang (6); thận dương hư thì nên củng cố thận tạng bồi hoả, dùng bài Tri bá bát vị hoàn (8) gia giảm mà chữa.

  1. PHỤ PHƯƠNG
  • Hoàn đới thang (Phó thanh Chủ nữ khoa)
Bạch truật (sao thổ) 20g Thương truật 12g
Hoài sơn dược 20g Cam thảo 4g
Đảng sâm 12g Trần bì 5g
Bạch thược (sao rượu) 8g Hắc giới tuệ 5g
Xa tiền tử (sao rượu) 12g Sài hồ 5g

Sắc uống ấm vào lúc xa bữa ăn.

  • Phục thổ hoàn (Chứng trị chuẩn thằng)

Phục linh 108g

Thỏ ty tử 180g

Thạch liên tử 72g

Tán bột, dùng rượu nấu hồ làm hoàn bằng hột ngô đồng, mỗi lần uống 3-5 chục viên với nước muối vào lúc đói.

  • Dịch hoàng thang (Phó thanh Chủ nữ khoa)

Sơn dược 36g

Xa tiền tử 4g (sao)

Khiếm thực 36g (sao đập dập)

Bạch quả 10 quả(đập nát)

Hoàng bá 8g (sao nước muối)

Sắc uống.

  • Lục quân tử thang (Xem mục Kinh nguyệt không đều)
  • Đơn chi tiêu giao tán (Xem mục Kinh nguyệt không đều)
  • Long đởm tả can thang (Cục phương)
Long đởm thảo 4g (sao rượu) Mộc thông 5g
Sài hồ 4g Đương quy vĩ 5g (rửa rượu)
Trạch tả 4g Chi tử 5g (sao)
Xa tiền tử 5g (sao) Hoàng cầm 5g (sao rượu)
Sinh địa hoàng 5g (sao rượu) Cam thảo 5g

Sắc uống vào lúc xa bữa ăn.

  • Nội bổ hoàn (Nữ khoa thiết yếu)

Lộc nhung (có thể thay bằng cao lộc giác)

Thỏ ty tử Nhục quế

Sa tật lê Tang phiêu diêu

Tử uyển nhung Nhục thung dung

Hoàng kỳ Chế phụ tử

Bạch tật lê

Các vị thuốc liều lượng đều bằng nhau, tán thành bột luyện với mật làm hoàn bằng hột ngô đồng,mỗi lần uống 30 viên với rượu ấm vào trước bữa ăn.

BÌNH LUẬN

Nhập nội dung bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.