BẢN THẢO VẤN ĐÁP QUYỂN HẠ CÂU 5-8′
5.Hỏi:Bàn về sáu khí, chưa có thuyết như vậy. Tôi hãy còn ngờ vực, thử nói rỏ ra. Xin hỏi trước về phong khí.
Đáp:các nhà học về thiên nhiên ở phương tây, nói là khí ở không trung, có khí lạnh, có khí nóng hai thứ, cho nên làm nổi gió. Vì không khí nóng, khì nở ra mà đi lên. Không khí lạnh ở chổ khác, chạy đến bổ sung vào; ví như ở trong nhà nóng lên, trên cửa dưới cửa đều có lỗ. Thì khí ở lỗ trên đi ra ngoài, khí ở lỗ dưới đi vào trong đạo. Lý thành ra gió, giống như vậy. Nhân đó mà thành ra hai thứ gió. Một thứ gió từ chổ lạnh thổi đến chổ nóng; như ở nhiệt đới khí hậu thường nóng. Thì khí nở ra mà đi lên, ở nam cực, bắc cực khí hậu thường lạnh, thì hai cực sinh phong, thổi vào nhiệt đới. Một thứ gió từ chỗ nóng đến chỗ lạnh. Hội ở nhiệt đới, bèn tản ra hồi chuyển trở lại, thổi đến chổ lạnh, chuyển trở lại hai cực. Hai thứ gió đo xoay chuyển đi lại không ngừng. Ơ Trung-quốc những ngày mùa đông, thì nhiệt đới ở phía nam, cho nên từ bắc thổi qua nam; những ngày mùa hạ, thì nhiệt đới chu yển về bắc, cho nên gió thổi từ nam về bắc. Tôi xét thấy gió thổi qua nam, là dương cực sinh âm, lấy âm theo dương, như quẻ Tốn trong Chu dịch. Quẻ Tốn ở Chu dịch tượng gió, chính là dương cực ở trên âm sinh ở dưới, nhiệt đới ở nam mà gió sinh ở bắc, cho nên quẻ có hai hào dương ở trên, một hào âm ở dưới. Gió thổi qua bắc, là âm cực sinh dương, lấy dương trở lại thay âm, như quẻ Chấn trong Chu dịch, Chu dịch không lấy gió để giải quẻ Chấn. Nhưng Nội kinh nói: “đông phương sinh phong”. Trong Chu dịch, quẻ Chấn thuộc đông phương, hai hào âm ở trên, mà một hào dương ở dưới, ứng với tượng dương đến âm lui của gió xuân. Tiết Xuân-phân, nhiệt đới chuyển dần dần về phương bắc. Gió đều theo nhiệt đới, thổi đến hướng bắc, cho nên mùa xuân, mùa hạ có nhiều gió nam. Dương đến âm lui, hình tượng quẻ Chấn; chấn là phương đông, cho nên Nội kinh nói: “phương đông sinh phong”, ý nghĩa rất đúng.
6.Hỏi:Trong thân thể người ta, Can mộc chủ quản phong khí, không ứng với quẻ Tốn, mà ứng với quẻ Chấn, hợp với Nội kinh, mà không hợp với Chu dịch. Sao vậy?
Đáp:Quẻ Tốn trong Chu dịch, là gió xứ lạnh thổi đến xứ nóng, là gió mạnh, gió dữ, không phải là thứ hoà phong cho thân người, trúng vào người là trúng phong (trúng gió). Kéo rút là hình tượng thường củaphong (gió), đối với người là một biến bệnh, không phải là thứ gió thích hợp cho nhân thân. Nội kinh chỉ dẫn: “ đông phương sinh phong, phong sinh mộc, mộc sinh toan, toan sinh can. Can chủ nhân thân chi phong khí ( can chủ phong khí trong thân thể). Đó là hình tượng âm lui dương đến, hợp đức với quẻ Chấn cho nên bàn về Can mộc chủ quản khí hoá của phong trong thân thể, nên theo thuyết đông phương sinh phong của Nội kinh. Vì phong là khí của phương đông, thuộc quẻ Chấn, trên có hai hào âm, dưới có một hào dương, tức là hình tượng âm cực dương sinh. Ơ người thuộc Quyết-âm Can kinh. Quyết là hết, là nghịch. Am hết mà dương sinh, cùng cực rồi trở lại, cho nên gọi là quyết âm. Sở dĩ Nội kinh nói: Trong quyết âm thấy có tướng hoả, là dương sinh ở trong âm, tượng của quẻ Chấn mà thành ra Can là tạng chủ phong mộc. Về thể thuộc âm, về dụng thuộc dương. Dương dư thừa thì sinh nhiệt phong, âm dư thừa thì sinh hàn phong. Cho nên phàm trúng phong, thương phong hoặc bị hàn phong hoặc bị nhiệt thâm quyết thâm ( nóng quá, lạnh ngắt, thành ra ngoài lạnh trong nóng, hoặc bị âm hàn) dương hồi ( âm rút dương đến), thành ra xoay qua tả, chuyển qua hữu, đều là các chứng bệnh vốn có của phong mộc. Hoặc phát ở tứ chi, hoặc trên đỉnh đầu, là bệnh của kinh quyết âm. Bây giờ đem các vị thuốc ra bàn. Kinh Can đi cùng đường với kinh Đởm, chỉ phân ra biểu lý, nhưng đều do phía bên thân thể, lên đỉnh đầu vào não, đến đỉnh đầu, cho nên Sài-hồ, Mạn-kinh dẫn được thiếu dương kinh, đều dẫn vào được Can kinh, để lên ở đầu, mà tán phong tà. Thương-nhĩ ( ké đầu ngựa) có gai, có góc, là vật được phong khí xinh ra, ứng với hình tượng “ câu man” của phương đông, chất lại nhẹ, cho nên vào kinh Can; trấn phong ở đầu mắt, vị đắng nên gồm cả thanh nhiệt. Câu-đằng có gai móc câu, cũng vào kinh Can, nhưng là loại nhánh bò lan, phần nhiều chủ tản ra bốn phía, cho nên trị phong nhiệt gân mạch của Can. Tuần-cốt-phong, Ngũ-gia-bì đều có lông, tính cay ấm, cho nên tán được phong hàn của kinh Can, khử tê đau của chu thân. Xuyên-khung khí ấm, ấm là dương trong âm, đúng với bản khí của phong mộc cho nên vào kinh Can; khí lại tẩu tán, rễ lại có tính đi lên, cho nên kên đến đỉnh đầu, để tán phong hàn. Cũng có tính không đi lên mà lên trị đau đầu được; “Đầu đau như vỡ” của Trọng-cảnh, dùng Ngô-thù-du, vị thuốc này xuống mau, tính không lên đầu nhưng giáng được Can vị hàn khiến cho hàn khí không lên trên đầu, đó là trị tạng phủ, mà bệnh ở kinh mạch tự khỏi, Thiên-ma có gió không lay động; không có gió lung lay một mình; lung lay là hoà khí của mộc, không lay động là khí cứng rắn của kim; khí hơi ấm là mộc tính; vị hơi cay là kim khí. Đó là mộc bị kim chế; vị thuốc hợp đức của kim mộc; một thân lên thẳng, hột lại vào ống xuống rễ, cho nên thông tay chân, hoà âm khí, trị đầu mắt, định kinh giản. Hột vào ống xuống rễ, như người phương Tây nói gió từ chổ lạnh, thổi đến nhiệt đới rồi thổi trở lại hai cực, cho nên lấy Thiên-ma làm vị thuốc chính trị phong. Người được gián khí (khí xen lẫn) mà sinh ra, là người khác thường (kỳ nhân), thuốc được gián khí mà sinh ra, là thuốc khác thường (kỳ dược). Như Thiên-ma là mộc được kim tính, là được gián khí (khí xen lẩn )cho nên thuốc trị phong rất hay. Bạch-đầu-ông cũng không có gió lung lay một mình, có gió không động, vì Bạch-đầu-ông mình có lông, một cọng lên thẳng, giống với thiên ma, biết là điều được khí của phong mộc đều đạt, cho nên không có gió mà lung lay được, sắc thuần trắng, là được kim tính, cho nên có gió không động; vị đắng là thuốc hay để trị nhiệt phong. Trọng-cảnh trị sản hậu trúng phong và kiết lỵ mót rặn, là lấy chỗ tức phong hoả đạt Can dương. Khương-độc-hoạt cũng một cọng lên thẳng, có gió không động, nhưng vị rất cay, khí rất ấm, tán phong hàn được, lực mạnh hơn Thiên-ma, gồm cả táo thấp, không được vừa cứng vừa mềm, đắc trung, như Thiên-ma. Tang-ký-sinh vị chua nhiều nhánh, đầy đủ tính của mộc, mà sinh trên cây dâu. Dâu là kim trong mộc, chùm gởi ghép vào, được gián khí của kim mộc; vả lại rễ không dính đất, toàn là cảm phong khí mà sinh ra, là thuốc hay để thanh tán phong mộc. Cương-tằm có gió mà cứng đơ cho nên trị các chứng kinh phong. Chứng phong lâu ngày, tay chân tê đau nhức, dùng Quế-chi để tán phong hàn, dùng Tang-chi để tán phong nhiệt, vì nhánh đi ngang, cho nên đạt đến bốn phía. Can chủ gân, phong ở gân mạch, dùng Tần-giao có gân, có lằn để dẫn, vị lại cay, cho nên ôn tán gân mạch được. Tục-đoạn cũng có gân,cho nên đều chủ trị gân mạch. Nhưng lằn gân của Tần-giao hai bên quấn quýt nhau, lợi cho việc giao tiếp hai bên; lằn gân của Tục-đoạn như xương đốt liền nhau, cho nên chủ tiếp gân cốt, khử phong hàn trong đốt xương. Đỗ-trọng có màng tơ nhì nhằn mà không đứt, giống gân màng của người. Vì giữa hai quảthận trong nhân thân, một miếng màng trắng, sinh ở trên mà thành màng ngực lớn ở giữa Can, do màng của Can nối liền, sinh ở ngoài thịt, bao bọc bắp thịt của chu thân. Hai đầu bắp thịt có gân, gân lại ở giữa đốt xương, Đỗ-trọng có màng, giống gân màng của người, cho nên vào Can, Thận, mạnh gân cốt. Can mạch chạy xuống chân, Tỳ lại chủ gân. Can thấp cước khí, đều là gân bị bệnh. Nội kinh nói: “phong lấn thấp”. Can mất chức năng của phong mộc, không sơ thổ được, cho nên thấp lưu trú. Cho nên Tây y nói: Phàm là cước khí, thì nước tiểu phải chua. Mộc-qua chua thu liễm khử thấp, cho nên trị được. Dĩ-nhân chỉ trị thấp, nên thêm phong dược để trị. Xương-ống-chân Hỗ cay ấm, lấy kim bình mộc, trị phong hàn cước khí; gió theo Hỗ, Hỗ ứng với bảy vì sao ở phương Tây, kim chế mộc. Càn cước khí là phong nhiệt, nên dùng A-giao, Qui-bản, Địa-hoàng thêm âm khí, làm cho dương không động để cho quyết âm trở lại bản thể của nó. Ngọc-trúc nhu nhuận tức phong, cũng có ý nghĩa như trên. Cho nên ngạn ngữ có câu: “ trị phong tiên trị huyết, huyết hành phong tự diệt” (trị phong trước trị huyết, huyết lưu hành thì phong tự diệt). Huyết đầy đủ thì Can dương không động, nên phong tự tắt. Chứng thống phong cũng có hàn phong, có nhiệt phong, bị nhiệt phong thì đau chạy lung tung, vì phong rung động mà huyết không yên tịnh; bị hàn phong thì huyết đau tê bại; hàn ngưng làm cho khí không thông; đều do ở huyết. Xem Trọng-cảnh dùng Hồng-lam-hoa, trị các bệnh về phong khí, thì biết lý trị phong trước phải trị huyết. Trùng cảm nhiễm phong mà hoá sinh, ghẻ lở, bịnh lác là có trùng, đều là do huyết bị lưu trệ, gặp can phong xông sưởi thì hoá trùng, cho nên dùng Kinh, Phòng để tán phong, Qui, Địa để hoà huyết, ngoài dùng Tiêu-mục để sát trùng. Lao trùng sinh ở tạng phủ, ứ huyết gặp phong mà sinh ra. Mạn-lệ-ngư cá lạc loài rắn, lại cong thẳng hình dài, được mộc khí, ở trong nước sắc trắng, là được kim khí; bàn theo hình sắc, là mộc gặp kim thuỷ mà sinh ra. Lao trùng nhờ phong mộc hoá sinh, gặp khí vị của Mạn-lệ-ngư, thì cảm khí kim thuỷ mà tiêu tán; cho nên Mạn-ngư trị lao trùng. Xương con Mạn-ngư xông sưởi con muỗi hoá ra nước được. Đó là gián khí mà thành linh vật. Gan con Rái cá cũng vậy, số ứng với mắt, chuyên được tinh của kim thuỷ, cho nên làm tiêu tán lao trùng so phong mộc sinh ra, cũng trị được vật do phong mộc hoá sinh. Nếu làthứ trùng do phong theo thấp mà hoá sinh, như thang”Thổ hồi” ( ói ra giun lãi) của Trọng-cảnh, dùng Ô-mai hoàn là để trị trùng của phong thấp. Ô-mai để liễm dương,Hoa-tiêu để hoá âm, làm cho trùng của phong thấp tự tiêu diệt. Xem Ô-mai hoàn dùng chung hàn nhiệt để giúp nhau,thì biết dương động, âm ứng thì sinh phong (gió), dương trở về, âm đi vào thì tắt gió (phong tức). Cho nên phong nhẹ do dương khí uất nghẹn nên tán; Bạc-hà, Kinh-giới, Phòng-phong, Tử-tô, Sài-hồ là loại thuốc dùng để tán. Phong dữ do âm ngăn lấp, ức chế, thì nên ôn; Phụ-tử, Xuyên-ô, Bạch-phụ-tử là loại thuốc để ôn. Trong lục kinh, duy có kinh quyết âm, là có dương trong âm, cho nên có bệnh nóng nhiều, móp lạnh cũng nhiều.phong ôn trùng bệnh (bệnh phong bệnh ôn chồng chất chặp lên nhau). Thường thường có như vậy, chỉ nên dùng phép thanh nhiệt (làm bớt nóng); dùng Tê-giác, Linh-dương, Ngưu-hoàng để thấu đạt. Ngoại hàn nội nhiệt, như ngượi phương Tâynói: trong nhà quá nóng, thì gió lạnh theo lỗ cửa mà vào, thì giữ nên trừ nhiệt, thì gió không đến nữa. Gân co rút, là nhiệt phong, nên dùng Linh-dương-giác. Dê gát sừng trên ngọn cây, treo mình để ngủ, biết là gân thẳng lắm. Sừng là chỗ tinh khí tụ lại, cho nên hơi hàn, chuyên làm cho gân thư thái. Hai bên tả hữu co kéo, như phương tây nói: nhiệt đới qua phía nam, thì gió bắc thổi đến; nhiệt đới qua phía bắc, thì gió nam thổi đến, tuần hoàn không ngừng; cho nên lấy Tần-giao gân sớ hai bên giao nhau để dẫn, lấy con mắt cọp (Hỗ tinh) định phong được, để trị. Phong lệch về bên tả, về bên hữu. Lý đều như vậy. Định phong như Bạch-đầu-ông, Thiên-ma, Linh-dương đều dùng được cả, gân lơi không thu, lại là hàn, là phong; nên dùng Quế,Phụ. Bàn thuốc không nên lẫn lộn
7. Hỏi: Thuốc ấm vào Can, mà thuốc nóng lắm lại vào Thận. Sao vậy?
Đáp:Như thế đủ thấy rằng Quyết âm chủ phong, thuộc dương trong âm; khí ấm thích ứng với dương trong âm, cho nên vào Can, như loại Ba-kích, Hồi-hương: Thiếu âm chủ nhiệt, chứa khí dương, cho nên vị thuốc có tính nóng lắm, vào thẳng trong Thận, Bàng-quang ở hạ tiêu, như Phụ-tử.
8. Hỏi: Xin hỏi thuốc trị Phong hàn.
Đáp:Hàn lạnh là thuỷ khí. Thuỷ thuộc bắc phương, Nhâm-quí, ở quẻ là khảm ở người thuộc thận, Nội kinh nói: chư hàn thu dẫn, giai thuộc ư thận (các thứ hàn thu dẫn, đều thuộc ở thận). Phủ của Thận là Bàng-quang, thay thận chủ quản hoá sinh, là phủ của hàn thuỷ, kinh Bàng-quang gọi là kinh thái dương. Nội kinh nói: “ Thái dương chi thượng, hàn khí tự chi” (trên thái dương, hàn khí thống trị). Hàn là bản khí của thái dương Bàng-quang. Một hào dương trong quẻ khảm, thật là nguyên khí trong thân thể, gởi vào trong thuỷ phủ Bàng-quang hoá khí (hoá thành hơi) mà đi lên, ra ngoài, thành vệ khí, bảo vệ bên ngoài cho nhân thân; gọi thái dương, là dương to lớn. Dương khí bảo vệ bên ngoài, thì đâu còn có hàn. Như có hàn thì dương khí không bung ra, bị một mình hàn thuỷ lấn áp, lúc đó có hàn bệnh. Mùa đông nước đóng thành băng tức là dương trong nước không bung ra, do đó thuần âm đông đặc thành lạnh. Dương khí trong nước của Bàng-quang, trong nhân thân, thấu đạt đến chẽn dừng, ra cơ nhục, đến da lông, thì bảo vệ bên ngoài không bị lạnh. Lạnh chủ thu lấp, cho nên bị lạnh thì lổ chân lông đóng kín, mồ hôi không ra, phát nóng; dương ở trong không thông ra ngoài, rút vào phía trong da uất lên phát nhiệt; dương bị kìm chế cho nên càng ghét lạnh (ố hàn). Dùng Ma-hoàng thông dương khí, ra lổ chân lông, đổ mồ hôi màhết lạnh. Ma-hoàng thân nhỏ mọc chùm, thân rỗng lên thẳng, khí vị nhẹ thênh, cho nên thấu đạt đến dương khí của Hàn thuỷ trong Bàng-quang, để ra đến lông da, là vị thuốc chủ yếu chữa thương hàn. Người đời sau dùng Khương-độc-hoạt thay Ma-hoàng; Khương-độc-hoạt rễ sâu, thân thẳng, dẫn được dương ở hạ tiêu của Bàng-quang, để đạt đến kinh mạch, mà phát tán ở biểu (làm ra mồ hôi), nhưng mùi cay mạnh, táo hơn so với Ma-hoàng, Khương-độc-hoạt khử thấp được nhưng không khinh thanh, chạy thẳng đến da lông như Ma-hoàng. Bạc-hà cũng khinh thanh, nhưng thăng tán do tại vị cho nên sức kém thua; Ma-hoàng thăng tán. Thuần do tại khí, nên sức rất mạnh, Cộng-hành-ống thông dương, giống ý nghĩa với Ma-hoàng. Nhưng Ma-hoàngcộng nhỏ giống lổ chân lông, cộng hành to giống lổ mũi, cho nên Hành trị được nghẹt mũi; Tân-di cũng thăng tán hàn ở lổ mũi, hàn ở não, ở sống mũi, lại thấy hoa ở ngọn cây, đầu nhọn hướng lên trên, cho nên chủ thăng tán. Kinh-giới tính chậm hơn Bạc-hà, Tử-tô cũng vậy; hai thứ này đều sắc đỏ, vào huyết phần được, vị cay thơm, tán hàn được, cho nên đều chủ tán hàn trong cơ nhục ở huyết phần. Phía ngoài của thân thể có da màng mỏng là khhí phần, phía trong có cơ nhục (bắp thịt) là huyết phần. Hàn vào huyết phần ở trong cơ nhục, ngăn trở khí, không ra ngoài được, để bảo vệ cho vững bên ngoài, cho nên lổ chân lông hỡ và mồ hôi chảy ra, nên dùng phép ôn tán cơ nhục. Quế-chi sắc đỏ, vị cay tán, vào huyết phần, cho nên chủ ôn tán cơ nhục. Chi nghĩa là nhánh, thông đạt bốn phía, cho nên chủ về tứ chi (tay chân). Tử-tô tính giống Quế-chi, nhưng nhẹ hơn, không quá ấm như Quế-chi. Phòng-phong vị ngọt vào cơ nhục, khí thơm mà ấm, cho nên tán phong hàn trong cơ nhục. Có lớp màng mỏng nối liền da thịt gọi là tấu lý. Sài-hồ có màng trắng trong cộng giống màng mỡ, thân thẳng lên, đạt được thanh dương, cho nên trị hàn nhiệt ở tấu lý. Kinh-giới được thế của một hoả, vào kinh thiếu dương, cũng phát được hàn nhiệt ở tấu lý. Trong cơ nhục hàn ngưng huyết trệ thì đau tê. Trọng-cảnh gọi là huyết tê (tý) chỉ về huyết phần, cho nên Ngũ-vật thang dùng Quế-chi, Đương-qui; Tứ-nghịch thang dùng Quế-chi, để ôn huyết phần. Người đời sau dùng Khương-độc-hoạt, Kinh-giới các vị này không bì kịp sức mạnh của Quế-chi. Lạnh vào gân mạch, hoặc sinh ra co quắp không co duỗi được, hoặc hơi thòng xuống, không dở lên được, hoặc đau nhức không chịu đựng được. Chữa các chứng ấy, nên dùng Tục-đoạn, Tần-giao dẫn vào gân mạch. Lạnh vào đốt xương, lưng gối châu thân đau nhức, tay chân lạnh ngắt, nên dùng Phụ-tử để ôn Thận. Thận chủ xương, dùng Tế-tân để theo kinh vào xương khu trừ hàn. Hàn theo kinh thái-dương phát làm co cứng, dùng Cát-căn dẫn Ma, Quế thei vào kinh mạch để tiêu tán hàn. Hàn vào não tuỷ, gọi chân đầu thống, dùng Tế-tân để dẫn kinh đi lên, dùng Phụ-tử để giúp dương đi lên các vị thuốc ấy đều theo Đốc mạch để vào não. Can mạch cũng vào não tuỷ, cho nên Trọng-cảnh dùng Ngô-thù-du trị não tuỷ hàn thống. Lỗ mũi thông não, cho nên người phương bắc lấy Tự-ứ để tán hàn trong não. Người phương Tây có dùng thuốc thổi vào mũi, để làm phép trị não tuỷ. Tây y lại nói: “ phần nhiều não gân quí tụ ở vị” ( dạ dày). Cho nên Bạch-chỉ, Tân-di đều theo dạ dày đạt đến não để tán hàn. Hàn do da lông vào phế, đóng khiếu của phế, thì mũi nghẹt, dùng Bạc-hà, Tân-di để trị. Phế chủ hành thuỷ, hàn thương phế dương, thuỷ không lưu hành, thì dừng ở dạ dày sinh ra thuỷ ẩm, khí xông lên thành ho. Trọng-cảnh dùng Tế-tân để hành thuỷ, dùng Can-khương (gừng phơi khô) để tán hàn, dùng Ma, Quế để xua đuổi hàn ra ngoài. Đó là thang Tiểu-thanh-long. Chỉ ôn phế mà không kiêm (gồm) trị vị (dạ dày) thì dùng Cam-thảo-Can-khương thang, Khương (gừng) bào chế sơ qua, thì nhẹ mà đi lên, cho nên chỉ ôn Phế. Người đời sau dùng Bạch-giới trục thuỷ, Trần-bì giáng khí, Đông-qua ôn Phế, Tô-tử giáng khí, đều là phỏng theo Tiểu-thanh-long thang của Trọng-cảnh, lấy tân ôn để khử Phế hàn. Tóm lại Bàng-quang chủ hàn thuỷ trong có dương của quẻ Khảm. Dương khí lên thì thuỷ hoá khí mà đi xuống, không còn hàn khí. Dương khí không lên, thì thuỷ ngừng không hoá khí, sinh ra hàn ẩm, cho nên dùng Tế-tân đạt dương trong thuỷ, dùng Phụ-tử để trợ dương trong thuỷ, dùng Can-khương để ôn dương trong Thổ. Dương thì hiện ra âm tiêu mất. Nên hàn ẩm tự nhiên biến hoá. Hàn thuỷ phạm ở trung cung, trên mửa dưới ỉa, sinh ra hoắt loạn động tiết (động tiết: cũng gọi thấp tả, do thuỷ thấp cản trở trong đường ruột, Tỳ hư không thể ức chế thuỷ mà gây nên), Can-khương ôn trung, cho nên chủ bệnh đó. Sa-nhân, Bạch-khấu, Lương-khương cũng trị được bệnh đó. Phàm khử hàn phải kiêm lợi thuỷ, vì hàn tức là thuỷ khí, khử thuỷ tức khử hàn. Đại hàn kết chặt sinh đau, dương khí không thông, dùng Ô-đầu, Tế-tân, Xuyên-tiêu, Tiểu-hồi, Ngõ-du trợ Thận dương, kiêm đạt Can dương. Dương khí thông suốt, thì hàn tan đau hết. Tay chân lạnh ngắt là do Thận dương không đạt, Phụ-tử ôn dương tráng thuỷ cho nên trị được. Cố-chỉ ôn Thận, chỉ ôn liễm được mà không đạt ra ngoài, cho nên chỉ trị đau lưng, mà không trị được tay chân nghịch lãnh. Nhục-quế là khí của mộc hoả, cay lắm vào hạ tiêu, hoả giao với thuỷ, thì dương sinh mà hàn thuỷ hết. Cho nên Thận-khí-hoàn dùng Quế, Phụ ôn bổ khảm dương, để hoá khí hành thuỷ; hàn ở lưng Thận tinh lạnh nên dùng; hàn ở Bàng-quang, Thuỷ ngừng không hoá, gọi là súc thuỷ, dùng Linh, Trạch để lợi thuỷ, mà càng nên dùng Quế-chi để làm thông dương trong thuỷ, như Ngũ-linh-tán. Ô-dước sắc tía, vào huyết phần, lại ôn khí. Vào Can, Can chủ huyết thất, cho nên Ô-dước vào huyết thất để tán hàn. Bản-kinh nói: “ trị Bàng-quang Thận gian lãnh khí” (trị khí lạnh trong Bàng-quang, Thận), tức là khí lạnh trong huyết thất, huyết ngưng sinh đau, dùng Ngãi-diệp, cũng là cảm khí mộc hoả, vào huyết thất được, hàn thuỷ lấn áp tâm, phải dùng Quế-chi, Viễn-chí, Công-đinh-hương, để làm thông Tâm dương. Hàn kèm thêm Can phong, thì sinh sên lãi, ức chế Tỳ thổ, thì dùng Xuyên-tiêu, Khương, Phụ để ôn Can. Như Lưu-hoàng, chất dịch trong đá, cháy được, là hoả trong thuỷ, vị chua là được mộc vị; dương trong thuỷ, phát ra thì sinh mộc, cho nên vị chua mà cháy được; đó là hoả trong thuỷ, là thứ thuốc mạnh để ôn Can, Thận ở hạ tiêu. Thiên-sinh-hoàng sinh ở Vân-nam, dưới có Lưu-hoàng, trên có suối ấm, hơi của suối xông đá kết thành Thiên-sinh-hoàng; dương khí trong chân thuỷ hoá sinh, thuần mà không táo. Khí dương của người đạt lên trên thì vào Phế. Thiên-sinh-hoàng sinh ở trên đá, cho nên là thuốc hay để ôn Phế. Không nên lấy tính của Lưu-hoàng mà bàn thuốc nóng đều có vị cay. Tuy rất ấm (đại ôn) mà chưa mạnh, là vì có mộc tính mà chưa có mộc vị, chưa có thuần tính sinh hoả, nên không mạnh. Đã ấm mà vị chua, là đã có mộc tính, lại có mộc vị, thuần để sinh hoả, cho nên tính mạnh, như Lưu-hoàng, Phê-trạch (thạch-tín).
8′. Hỏi: Bệnh có thượng nhiệt hạ hàn, ngoại nhiệt nội hàn, nên dùng thuốc nào?
Đáp:Thì lấy hạ hàn, nội hàn làm chủ. Dùng Khương, Quế, Phụ, kiêm Đảm-trấp, nhân-niệu (nước đái), Mạch-đông, Ngưu-tất để bắt buộc hạ tiện.