ĐÔNG Y ĐIỀU TRỊ BỆNH DẠ DÀY: ĐAU DẠ DÀY (ĐAU VỊ – HOÃN)

ĐÔNG Y ĐIỀU TRỊ BỆNH DẠ DÀY
ĐÔNG Y ĐIỀU TRỊ BỆNH DẠ DÀY

A) KHÁI-THUẬT:

“Vi-hoãn thống” ( đau Dạ Dày) tục gọi là “Vi-khẩu thống ngày xưa gọi là “Tâm-thống” như Chu Đan-Khê nói: ” Tâm thông tức là ‘Vi hoãn thống”. ” Sách Y-học tâm-ngộ” (1) nói: “cổ phương có 9 loại Tấm thống, có nói rõ nguyên nhân bệnh, tất cả đều ở tại Vi-hoãn, chứ thực ra không ở tại Tâm.” Đây là câu nói đúng nhất.

Người xưa đã chia làm 2 loại nguyên-nhân , nhưng trên thực tế lâm-sàng, chúng ta thường thấy có 6 nhân-tố: hàn, nhiệt, khí ,huyết, thực, đàm. Bệnh– biến phần lớn là tại Can, Tỳ, vị, đa sổ do ở thích ăn nhiều thức ăn cay (tân) chua (toan), hoặc uống rượu vô độ, làm cho Can Vị bị nhiệt-uất, nếu nặng sẽ làm tổn đến Âm-khí của vị thành ra đau; hoặc ưa ăn thức ăn sống lạnh, Âm-hàn đình-tụ, làm thương đến Tỳ-dương; hoặc Dương khí của bệnh-nhân vốn hư, hàn-khí sinh ra từ bên trong làm cho Tỳ mất đi sự vận hành mạnh-mẽ của mình, vị mất đi lẽ hòa giáng của mình, tất cả làm cho đau- đớn; hoặc ưu tư, giận-dữ, Can khí bị uất-kết, Can-mộc bị hoành-nghich, Tỳ và Vị bị khắc, cơ-chế của khí bị uất-trệ, làm cho khí của Tỳ vị mất đi

sự hướng-dẫn của thăng-giáng, làm cho đau-đớn; hoặc do Tỳ vị vốn đã hư không còn sức để hủ, làm nhiệt thủy cốc và vận hóa chất tinh vi.

Ngày lại ngày , nó tích ẩm” thành đàm”, đàm thấp làm trở-ngại vận-hành của Trung-tiêu,cơ chế của khí không còn thư xướng nữa mà sinh ra đau-đơn.

Nói tóm lại, bệnh không ngoài 2 Chữ “hư và thực”. Nếu là hư thì phải hiểu là do tự thân của Tỳ Vị bị hư, hoặc bệnh lâu ngày rồi thành ra hư, tà-khí can-thiệp vào làm cho đau. Nếu là thực thì phải hiểu là tà-khí thịnh, nhân vì thân-thể hư không khắc nồi tà-thực để đến nối tà-thực và hư đánh nhau gây ra đau-đớn. Do đó, khi châm-cứu trị-liệu chứng bệnh này, chúng ta nên làm sơ-thông cơ-chế của khí, bổ trung, giáng nghịch làm chủ-yểu.

b) TRỊ- LIỆU:

* Chứng-trạng: Lấy chứng đau vùng Vị-hoãn làm chủ-chứng. Tùy theo nguyên-nhân bệnh mà ta có những đặc-điển chứng-trạng như sau: nếu là nghiêng về hàn thì sự đau-đớn kéo dài không đứt, tay chân không ấm; nếu là nghiêng và nhiệt thì đại tiện bí, Tâm phiền, khẩu khát; nếu là do khí uất thì vùng hoãn và vùng hông sườn bị trướng thống, ói ra, chất chua; nếu là do ứ huyết hì đau như dao cắt, tiểu ra phân đen; nếu là do đàm-ầm thì ruột sôi ồ-ồ, Tâm sợ-sệt, đầu choáng-vang; nếu là do thực-khí bị trệ thì vùng hõan bị trướng, ăn ít, có cái, nhân đó thì có cái quả đó. Ta tùy chứng mà trị.

* Phép trị: Lý khí chỉ thống, điều trung giáng nghịch.

* xử-phương và phép châm-cứu: chân Trung hoãn, Lương-môn đều 5 phan; châm Cự-khuyết kim nghiêng xuống dưới sâu 3 phân; cứu Thiên-xu 3 tráng, không châm; chân Túc Tam-lý 5 phân; chân Nội-quan, công-tôn đều 3 phần. Nếu thuộc hư chứng thì bổ, nếu thuốc thực-chứng thì tả, nêu trong hư kèm theo thực thi dùng phép bình bộ bình tả, lưu kim từ 10 đến 20 phút. Nếu hàn thì cứu thêm 3 tráng, nhiệt thì không cứu.

Phép gia-giảm: Nếu trước kh ăn mà đau thì chân thêm tả Can-du 3 phần; bổ Tỳ-du 3 phân, cưú 3 tráng, nếu là sau khi ăn bị đau chân thêm Cách-du 2 phần, tả; tả Thái-xung 2 phân không cứu; nếu nghiêng về đàm châm thêm tá Phong-long 5 phân; nếu là uất-khí chân tả thêm Dương Lăng  Tuyền 1 thốn: tả Thái xung 2 phân; nên là có ứ huyết  thì cần thêm Tả Huyết – hải, Tam âm-giao đều 5 phần; nếu là hư-hàn khi dùng nhiều cứu, và bổ; nếu là nhiệt – thực khi không dùng cứu mà dùng phép tả.

e) CẤM KỴ:

Sau khi dứt đau nền cho ăn thêm Cháo nhừ để điều dưỡng, cấm kỵ ăn sống lạnh dầu mỡ, không giận hoặc giận dữ .

 

ĐÔNG Y ĐIỀU TRỊ BỆNH DẠ DÀY
ĐÔNG Y ĐIỀU TRỊ BỆNH DẠ DÀY

Theo:” Cẩm nang châm cứu thực hành” Lương Y Huỳnh Minh Đức dịch.

BÌNH LUẬN

Nhập nội dung bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.