Mạch và chứng của bài Tiểu hãm Hung thang
Điều 142. Bệnh tiểu tiện, kết hung chính ở dưới tâm ấn vào thì đau, mạch phù hoạt, dùng Tiểu hãm hung thang làm chủ.
Tóm tắt:
Chứng trạng và cách chữa bệnh tiểu kết hung.
Thích nghĩa:
Sự kết tụ của chứng tiểu kết hưng: vị trí của bệnh so với chứng Đại kết hung thạng là nhỏ, thế của bệnh cũng nhẹ hơn cho nên nói: ” Chính ở giữa tâm ấn vào thì đau”. Mạch phù hoạt là đờm với nhiệt kết lại tương đối nóng, cho nên dùng Mạch và chứng của bài Tiểu hãm hung thang làm chủ trị.
Lời chú chọn lọc:
Trương Kiêm Thiên nói:”Từ dưới tâm đến bụng dưới rắn như đá mà cự án là chứng Đại kết hung. Chính hạ tâm chưa nóng, sườn, ấn vào thì đau, không rắn như đá là chứng Tiểu kết hung. Hình thái, chứng trạng chia ra như vậy vì chứng Đại kết hung là thuỷ tà kết tụ ỏ ngực bụng cho nên mạch trầm khẩn; chứng Tiểu kết hung là đàm tụ kết ỏ dưới tâm, cho nên mạch phù hoạt. Thuỷ tà kết tụ là phải hạ, cho nên dùng cam toại, đình lịch, hạnh nhân, phác tiêu, đại hoàng… Đờm kết tụ thì nên tiêu đi cho nên dùng qua lâu, bán hạ…
Tiểu hãm hung thang:
Hoàng liên 1 lạng
Bán hạ 1/2 thăng (tẩy)
Qua lâu thực to thì 1 quả
Ba vị trên dùng 6 thăng nước. Trước nấu vị qua lâu cạn còn 3 thăng, lọc bỏ bã rồi cho các vị kia vào sắc còn 2 thăng, lọc bỏ bã, chia uống ấm 3 lần.
Ý nghĩa phương thuốc:
Phương này có tác dụng thanh nhiệt khai kết, giáng đòm. Hoàng liên đắng lạnh, bán hạ cay đưa xuống, đắng và cay dùng chung, thanh nhiệt mà kiêm khử đòm. Nấu qua lâu trước thì tập trung mà chịu đựng được gánh nặng để khai kết tụ ở trung tiêu.
Phương này so với Đại hãm hung thang là hoãn:
chứng có khinh – trọng, phương có đại – tiểu, cho nên gọi là Tiểu hãm hung thang.