NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN

KINH VĂN

NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN
NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN

Hoàng Đế ngồi ở nhà minh đường, mới bắt đầu chỉnh lại thiên cương, rộng xem tám phương (cực), suy xét năm thường(1). Mời Thiên sư (Kỳ Bá) mà hỏi rằng:

Tôi nghe Phu Tử cho biết cái số về “ngũ vận”, chỉ có cái nghĩa là năm khí chủ về các năm mà thôi. Giờ Quỷ Du Khu lại nói với tôi rằng: “Thổ chủ về Giáp, Kỷ; Kim chủ về Ẩt, Canh; Thủy chủ về Bính, Tân; Mộc chủ về Đinh, Nhâm; Hỏa chủ về Mậu, Quý. Và ở trên Tý, Ngọ, Thiếu âm làm chủ; ở trên Sửu, Vị (Mùi), Thái âm làm chủ; ở trên Dần, Thân, Thiếu dương làm chủ; ở trên Mão, Dậu, Dương minh làm chủ ; ở trên Thìn, Tuất, Thái dương làm chủ; ở trên Tỵ, Hợi, Quyết âm làm chủ. So với âm dương của năm vận, sáu khí không hợp, là sao vậy?

Kỳ Bá thưa rằng:

Quỷ Du Khu nói như vậy là hiểu cái đạo âm dương của trời đất đó. Phàm về “sổ” mà có thể đếm được, là cái khí Âm Dương ở trong con người. Nhưng chỉ có thể đếm được cái “sở hợp” mà thôi. Đến như âm dương của trời đất, đếm có thể được mười, mà suy ra có thể thành trăm; đếm có thể được nghìn, mà suy ra có thể thành vạn. Vậy không thể nào lấy “số” để suy mà chỉ có thể lấy “hình tượng” để ví(2).

NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN
NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN

Hoàng Đế hỏi:

Xin cho biết lúc đầu ra làm sao?

Kỳ Bá thưa rằng:

Thần xem ở Thái thủy Thiên nguyên sách có chép rằng: Cái khí của Đan thiên, qua ở Mậu phận thuộc sao Ngưu, Nữ; cái khí của Kiền thiên, qua ở Kỷ phận, thuộc sao Tâm, Vỹ; cái khí Thương thiên, qua ở các sao Nguy, Thất, Liễu, Quỷ; cái khí của Tố thiên, qua ở các sao Tất; cái khí ở Huyền thiên, qua ở các sao Trương, Dực, Lâu, Vị. Như nói về Mậu, Kỷ phận, tức là khoảng sao Khuê, Bích, Giác, Chẩn, mà là cửa ngõ của trời đất. Tóm lại, bắt đầu của sự biến hóa, đạo do đó mà sinh ra, cần phải hiểu biết lắm mới được(2).

Hoàng Đế hỏi:

Luận nói: Trời đất là trên dưới của muôn vật, tả hữu là đạo lộ (đường lối) của âm dương, xin cho biết rõ nghĩa đó ra sao?(3)

Kỳ Bá thưa rằng:

Luận nói về trên dưới, là trên dưới của từng năm, và âm dương ở về nơi nào.

NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN
NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN

Nói về tả hữu: Phàm trên thấy Quyết âm, thì bên tả là Thiếu âm, bên hữu là Thái dương; thấy Thiếu âm, thì bên tả là Thái âm, bên hữu là Quyết âm; thấy Thái âm, thì bên tả là Thiếu dương, bên hữu là Thiếu âm; thấy Thiếu dương thì bên tả là Dương minh, bên hữu là Thái âm; thấy Dương minh, thi bên tả là Thái dương, bên hữu là Thiêu dương; thấy Thái dương, thì bên tả là Quyết âm, bên hữu là Dương minh. Đó là ngoảnh mặt về phương Bắc để định rõ ngôi mà nói(5).

Hoàng Đế hỏi:

Thế nào là dưới?

Kỳ Bá thưa rằng:

Quyết âm ở trên thì Thiếu dương ở dưới, tả là Dương minh, hữu là Thái âm; Thiếu âm ở trên thì Duơng minh ở duới, tả là Thái dương, hữu là Thiếu duơng; Thái âm ở trên thì Thái duơng ở duới, tả là Quyết âm, hữu là Duơng minh; Thiếu duơng ở trên thì Quyết âm ở duới, tả là Thiếu âm, hữu là Thiếu duơng; Dương minh ở trên thì Thiếu âm ở dưới, tả là Thái âm, hữu là Quyết âm; Thái dương ở trên thì Thái âm ở dưới, tả là Thiếu dương, hữu là Thiếu âm. Đó tức là cái ngoảnh mặt về phương Nam để ấn định bộ Vị, còn sự nhận thấy là do người hướng về Bắc để xem vậy(6).

NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN
NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN

Trên dưới cùng gặp, hàn thừ cùng lâm (tới); khi tương đắc thì hòa, không tương đắc thì bệnh(7).

Hoàng Đế hỏi:

Khí không tương đắc mà bệnh, là thế nào?

Kỳ Bá thưa rằng:

Đó là vì lấy dưới để lâm lên trên, không đủng với địa vị, nên sinh bệnh(8).

Động tĩnh như thế nào?

Ở trên thì hữu hành (đi vòng sang bên hữu), ở dưới thì tả hành. Tả hữu đi hết một “chu”, còn dư, thì lại hội(9).

Hoàng Đế hỏi:

Tôi nghe Quỳ Du Khu nói: “ứng với đất thì tĩnh”, giờ Phu Tử lại nói: “Ở dưới thì tả hành” vậy thế là nghĩa sao?

Kỳ Bá thưa rằng:

NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN
NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN

Trời, đất, động, tĩnh, năm hành thiên, phục. Tuy đời trước cùa Quỳ Du Khu cũng chi biết được động tượng cùa trời mà thôi. Còn về “tĩnh hỉnh” cùa đất thì vẫn chưa rõ(10).

Cái công dụng của sự biển hóa, trời bày ra tượng, đất gây nên hình, “thất diệu” kinh vĩ ở khoảng Thái hư, ngũ hành chương minh ở trên mặt đất. Đất, cốt để chở mọi hình loại đã sinh thành; Thái hư,

Cốt để bày cái tinh khí hiền hiện ở trên trời. Sự động cùa hình với tinh, cũng như gốc rễ đối với cành lá. Ngửa lên xem tượng, dù xa cũng có thể biết dược(,l).

Hoàng Đế hỏi:

Đất, ờ về phần dưới, phài không?

Kỳ Bá thưa rằng:

Đất sở dĩ ờ dưới người, chính vì nó ở trong khoảng Thái hư đó.

Có nưong tựa vào đâu không?

Chi do “đại khí” mang lên đó thôi(12).

Nhờ khí táo để làm cho Can (khô), nhờ khí thử để làm cho chưng (như nung, nấu, hấp), nhờ khí phong để làm cho động, nhờ khí thấp để làm cho nhuận, nhờ khí Hỏa để làm cho kiên (cứng, rắn lại), nhờ khí Hỏa để làm cho ôn, cho nên khí phong hàn ở dưới, khí táo nhiệt ở trên, khí thấp ở khoảng giữa… Sáu khí đó du hành khắp ở trên và dưới, do đó mới thành được sự sinh hóa(l3).

NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN
NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN

Cho nên khí táo thắng thì đất “can”, khí thử thắng thì đất nhiệt, khí phong thắng thì đất động, khí thấp thắng thì đất lầy (nê), khí hàn thắng thì đất nứt (lạt), khí Hỏa thắng thì đất cố (rắn bền)(14).

Hoàng Đế nói:

Khí cùa trời đất, lấy gì để “bậu” được?

Kỳ Bá thưa rằng:

Khí của trời đất, và cái biến chuyển của thắng phục, không hình ra ở “chẩn” (tức chẩn mạch). Mạch pháp nói rằng: “Sự biến cùa trời đất, không thể chẩn ở mạch…” tức là nghĩa đó(15).

Hoàng Đế hỏi:

Gián khí như thế nào?

Kỳ Bá thưa rằng

Tùy cái “sở tại” cùa khí, phải dự kỳ ở hai bên tà hfru(l6).

Hoàng Đế hỏi:

Dự kỳ như thế nào?

Kỳ Bá thưa rằng:

– Theo với khí thì hòa, trái với khí thỉ bệnh(17). Không đúng với địa vị cũng sinh bệnh(l8); thay đổi mất địa vị cũng bệnh(l9); bỏ mất cái địa vị nến giữ thì nguy(20); Xích với thốn trái nhau thì chết(2l); Âm dương giao nhau cũng chết(22); trước hãy lập lấy năm, để biết là khí gi và tả hữu tương ứng như thế nào, rồi sau mới có thể nói được đến từ, sinh, nghịch, thuận(23).

Hoàng Đế hỏi:

Hàn, thừ, thâp, táo, phong, hỏa. Hợp với người như thế nào? Đối với muôn vật, sao mà hóa sinh được?

Kỳ Bả thưa rằng:

Đông phương sinh ra phong, phong sinh hành Mộc, Mộc sinh ra vị toan (chua), toan sinh ra Can, Can sinh ra cân, cân sinh ra Tâm(24); nó ở trời là huyền, ở người là đạo, ở đất là hóa, do hóa mà sinh ra năm Vị. Đạo sinh ra trí, huyền sinh ra thần, hóa sinh ra khí. Thần, ở trời là phong, ở đất là Mộc, ở thể là cân, ở khí là nhu (mềm mại), ở Tàng là Can(25).

NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN
NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN

Tính cùa nó là huyên (ấm áp); đức của nó là hòa; công dụng cùa nó là động; sắc cùa nó là thương (xanh); về sự hóa cùa nó là vinh (tươi tốt). Thuộc về trùng là giống cỏ mao (lông), chính của nó là tán (sơ tán), bệnh của nó là tuyên phát, sự biến của nỏ là tồi lạp (bẻ gãy); tai sảnh cùa nó là vẫn (rơi rụng), Vị cùa nó là toan, chí của nó là nộ. Do nộ sẽ làm thương Can, nhờ “bi” sẽ thắng nộ, phong làm thưong Can; táo sẽ thắng phong, toan làm thương cân, tân sẽ thắng toan(26).

NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN
NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN

Nam phương sinh nhiệt, nhiệt sinh ra hành Hỏa, Hỏa sinh ra vị khổ, khổ sinh ra Tâm, Tâm sinh ra huyết, huyết sinh ra Tỳ. Nó ở trời là nhiệt, ở đất là Hỏa, ở thể là mạch, ở khí là tức (hơi thờ), ở Tàng là Tâm. Tính của nó là thủ’ (nắng, nóng), đức cùa nó là hiển (tỏ tường, rõ ràng), công dụng của nỏ là táo (nóng nảy, vội vàng), sắc cùa nó là xích (đỏ), hỏa của nó là mậu (tốt, về mùa hạ cây cỏ rậm rạp). Thuộc loại trùng là loài vũ (lông cánh), chính cùa nó là minh (sáng), lệnh cùa nỏ là uất chung (nung nấu, nóng bức), biến cùa nó là viêm thước (bốc cháy), tai sảnh của nó là phần, bính (đốt; viêm thước, phần, bính đều là hình dung cái khí cực nhiệt), vị cùa nó là khổ, chí cùa nó là hỷ. Hỷ làm thương Tâm, khùng sẽ thắng được hỷ; nhiệt làm thương khí, hàn sẽ thắng được nhiệt; khổ làm thương khí, hàn sẽ thắng được khổ.

Trung ương sinh ra thấp, thấp sinh ra hành Thổ, Thổ sinh ra Vị cam, cam sinh ra Tỳ, Tỳ sinh ra nhục, nhục sinh ra Phế. Nó ở trời là thấp, ở đất là Thổ, ở thể là nhục, ở khí là xung (đầy), ở Tàng là Tỳ. Tính của nó là tĩnh, đức cùa nó là nhu (ẩm ướt), công dụng cùa nó là hóa, sắc cùa nó là hoàng (vàng), hỏa cùa nó là doanh (đầy, cũng như xung), về trùng thuộc loại khỏa (loài trùng có nhiều chất thịt, do đất sinh ra), chính cùa nó là yên tĩnh, lệnh cùa nó là mây mưa; biến của nó là chú (ẩm ưót quá); tai sành cùa nó là râm hội (lở nát, khi thấp nhiều quá). Vị cùa nó là cam, chí cùa nó là tư (nghĩ, nhớ). Tư làm thương Tỳ, nộ sỗ thắng được tư; thấp làm thương nhục, phong sẽ thắng được thấp; cam làm thương Tỳ, toan sẽ thắng được cam.

NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN
NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN

Tây phương sinh ra táo, táo sinh ra hành Kim, Kim sinh ra tân, tân sinh ra Phế, Phế sinh ra bì mao, bì mao sinh ra Thận. Ở trời là táo, ở đất là Kim, ở thể là bì mao, ở khí là thành, ở Tàng là Phế. Tính của nó là lương (mát), đức cùa nó là thanh (trong trẻo), công dụng cùa nó là trắng, hóa cùa nó là liễm (thâu, liễm lại). Thuộc về trùng là loài giới (loài có vỏ cứng bên ngoài như trai, sò), chính cùa nỏ là kinh (cứng cáp), lệch của nó là vụ lộ (mù, móc), biến cùa nỏ là túc sái, lai sành của nỏ là úa rụng. Vị cùa nó là tân, chí cùa nó là ưu. Uu làm thương Phế, hỷ sẽ thắng ưu; nhiệt làm thương bì mao, hàn sẽ thắng nhiệt; tân và thương bì mao, khổ sẽ thẳng tân(27).

Bắc phương sinh hàn, hàn sinh ra hành Thủy, Thủy sinh ra vị hàm, hàm sinh ra Thận, Thận sinh ra cốt tủy, tủy sinh ra Can (cứng). Ở trời là hàn, ở đất là Thuỷ, ở thể là cốt (xương); ở khí là kiên (cứng), ở Tàng là Thận. Tính cùa nó là lâm (rét, run), đức cùa nó là hàn, công dụng cùa nó là (? nguyên bản khuyết một chữ), sấc cùa nó là hẳc (đen), tà cùa nó là túc (nghiêm ngặt), về trùng thuộc loại lân (loài có vảy), chính cùa nó là tĩnh (yên lặng), lệnh cùa nó là) ( nguyên bản khuyết một chữ), nó biến là ngưng lật (rét buốt), tai sảnh của nó là băng hộc (mưa đá). Vị cùa nó là hàm, chí của nó đều có chù trị về từng mùa. Nhưng nếu khí “phong lập” mà lại không phải Xuân lệnh, khi nhiệt lập mà không phải hạ lệnh, khi thấp lập ma không phải Trường hạ lệnh; khi táo lập mà không phải Thu lệnh, khí hàn lập mà không phải Đông lệnh v.v. Đó đều là “lập” không phải Vị, sẽ là cái “tà” “thắng phục”, vậy. nếu phong lập đúng Xuân lệnh, nhiệt lập đúng Hạ lệnh, thấp lập đúng Trường hạ lệnh, Táo lập đúng Thu lệnh, Hàn lập đúng Đông lệnh.

NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN
NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN

Đó đều đúng với ngôi của mình, và là sự chính cùa Bản khí. Vậy phải trước “lập lấy vận”, rồi sau mới biết thế nào là đúng vị hay không đúng vị. Khí tương đắc và không tương đắc v.v. Theo Vương Băng thời chú giải rằng: “Mộc ở Hoà vị, Hoả Thổ vị, Thổ ở Kim vị, Kim ở Thuỷ vị, Thuỷ ỏ’ Mộc vị, Mộc ở quân vị v.v… Như thế tuy là tương đắc, nhưng rút lại vẫn là “con lấn ở cái ngôi cùa cha mẹ”, kẻ dưới lăng người trên, cũng là tiểu nghịch. Neu Mộc ở Kim thổ vị, Hoả ở Kim thuỷ vị,; Thổ ở Thuỷ mộc vị, Kim ò’ Hoả mộc vị, Thuỷ ở Hoả thổ vị v.v. Như thế là không tương đắc, sẽ mắc bệnh nặng. Vậy trước phải lập vận khí và cái khí tư thiên, thời khí ở nơi nào, tương đẳc hay không, mới có thể biết được”.

NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN
NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN

Về chủ tuế cũng là nói về cái khí của năm phương trên kia, đều trị về chính lệnh cùa mỗi năm. Tuế khí hữu dư, thời nó sẽ chế được “sở thắng”, mà “võ” cái “sờ bất thắng”. Ti như: cái khí cùa Tuế mộc trị chính mà hữu dư thời nó chế Thổ khí, mà sự hoá cùa khí thấp sẽ bị giảm ít; nó lại “võ” Kim khí, mà cái hoá cùa phong sẽ đại phát triển. Nếu là bất cập, thời cái “kỷ sở bất thắng” nó sẽ “võ” mà lấn lên, cái “kỷ sở thắng” nó sẽ khinh mà “võ” theo. Ti như cái khí cùa Tuế mộc trị chính mà bất cập, thời Kim khí thắng, nó sẽ “võ” mà ran lên, sự hoá cùa khí táo sẽ do đó mà tán bố. Đến như: “Võ lại thụ tà v.v.”. Ti như: Kim “võ” Mộc mà bất cập, rồi theo mà lấn lên. Thời Mộc đối với Hoà, sẽ báo phục cái sự thắng đó mà “võ” lại, té ra Kim lại thù tà. Kim đã thụ từ, thòi cái Mộc bất cập kia không còn sợ gì nữa, sẽ lại được xênh xang thư xướng.

Từ đoạn “Đông phương sinh phong” trở xuống, phần nhiều đã có ở thiên Kim quỹ chân ngôn luận, Âm dưong ứng tượng đại luận. Nên không giải nghĩa từng câu, e thêm sự trùng phức.

CHÚ GIẢI:

NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN
NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN

(1) Âm dương ở trong con người, sinh ra bởi số “5”, về khí thì có “3”. Do “ba” mà thành trời, do “ba” mà thành đất, do “ba” mà thành người. Ba nhân với ba thành chín, chín chia làm chín “rã”, chín “rã” hợp với chín Tàng để ứng với cối tiết “sáu, sáu” của trời. Đó là âm dương của trời, với trời đất cùng hợp. Mà cái số “hợp” đó có thể đếm được. Lấy “hình tượng để ví” Tức như ở tiết dưới nói: Đan thiên, Kiền thiên v.v…

(2) Đây nói về sự hóa vận của năm hành, bắt đầu phát sinh từ thiên tượng ở năm phương. Đan, sắc xích, là khí của hỏa. Ngưu, Nữ ở “độ” quý; qua Mậu phận thuộc Ngưu, Nữ. Do đó, Mậu với Quý hợp mà hóa Hỏa. Kiền sắc vàng, là khí của đất. Tâm, Vỹ ở độ Giáp; qua Kỷ phận thuộc Tâm, Vỹ. Do đó, Giáp với Kỷ hợp mà hóa Thổ. Thương, sắc xanh, là khí cùa Mộc; Nguy, Thất ở đô Nhâm, Liễu, Quý qua độ Đinh. Do đó, Đinh với Nhâm hợp mà hóa Mộc. Tố sắc, trắng là khí của Kim; Cang Đê ở độ Ât, Mão Tất ở độ Canh. Do đó Ẩt Canh hợp mà hóa Kim. Huyền, sắc đen, là khí của thủy, Trương, Dực ở độ Bính; Lâu, Vị ở độ tân. Do đó, Bính, Tân hợp mà hóa Thủy; Mậu, Kỷ ở trung cung, là cửa ngõ của trời đất. Đông áp kinh nói: Sáu Mậu là Thiên môn, sáu Kỷ là Địa hộ, ở về địa phận các sao Khuê, Bích, Giác, Chẩn. Khuê, Bích ở phương Càn, Giác, Chẩn ở phương Tốn. Đó là sự bẳt đầu của năm khí hóa ra năm hành. Đạo của trời đất rất huyền diệu, ta nên suy xét. Ngọc Sư nói: Nhận ở trời, qua một làn khí sắc mơ màng ẩn hiện, nên ta chỉ trông thấy những sắc: đan, kiền, thương, tố, huyền. Đen ở đất thì đã thành ra cái hình của năm hành, nên mới thấy rõ là: thanh, hoàng, xích, bạch, hắc.

NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN
NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN

(3) Ở đây, lại nói về sự trên, dưới, tả, hữu của sáu khí. Tư thiên ở trên, Tại toàn ở dưới, muôn vật hóa sinh ở khoảng giữa, nên trời đất mới là “trên dưới của muôn vật”. Tả hữu tức là “gián khí”, gián khí để “kỷ bộ” (ghi từng bộ), nên là đường lối cùa âm dương. Từ Chấn Công nói: “Ngũ với lục cùng hợp lại mới thành một năm. Nên ờ trong thiên Ngũ vận lại bàn cả lục khí”.

(4) Đây nói về Tư thiên, Tại toàn ở trên dưới. Như năm Tý, Ngọ, Thiểu âm ở trên thì Dương minh ờ dưới. Năm Sửu, Vị (Mùi), Thái âm ờ trên thì Thái dương ở dưới. Năm Dần, Thân, Thiếu dương ở trên thì Quyết âm ở dưới. Năm Mão, Dậu, Dương minh ờ trên thi Thiểu âm ờ dưới. Năm Thìn, Tuất, Thái dương ờ trên thì Thái âm ở dưới. Năm Tỵ, Hợi, Quyết âm ở trẽn thì Thiếu dương ở dưới. Đó là sự trên dưới cùa Tam âm, Tam dương.

NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN
NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN

(5) Đây nói về sự phân biệt tả hữu: Đông là tả, Tây là hữu. Như thấy Quyết âm ở trên, thì Thiểu âm ở bên tả, Thái dương ở bên hữu; thấy Thiếu âm ở trên, thì Thái âm ở bên tà, Quyết âm ờ bên hữu; thấy Thái âm ở trên, thì Thiểu dương ờ bên tả, Thiểu âm ở bên hữu; thấy Thiếu dương ờ trên, thì Dương minh ờ bên tả, Thái âm ờ bên hữu; thấy Dương minh ở trên, thì Thái dương ở bên tả, Thiếu dương ở bên hữu; thấy Thái dương ở trên, thì Quyết âm ữ bên tả, Dương minh ờ bên hữu. Sở dĩ cỏ sự nhận xét như trên đây, vì để dồ tượng ngoảnh mặt về phương Nam, còn mình thì hướng về phương Bắc để xem. Do đỏ dể nhận trên dưới và tà hữu, cũng vì thể, nên trên mới nói Đông là tả, Tây là hữu v.v.

(6) Đây nói về phân biệt tả hữu ở dưới. Như năm Tỵ, Hợi, Quyết âm ở trên thì Thiếu dương ở dưới, mà Dương minh thì ờ tả cùa Thiếu dương, Thái âm thì ờ hữu cùa Thiếu dương v.v.

NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN
NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN

Kim Tây Minh nói: Phàm tả hay hữu của trên với dưới đều lấy Đông làm tà, Tây làm hữu, cho nên “diện Nam, diện Bắc” để xem. Nếu chi “Nam diện” để xem, như khí ở dưới mà “tả hành” thì khí ờ trên sẽ “hữu chuyển” Cho nên dưới đây có nối: “Ở trên thì hữu hành, ờ dưới thì tà hành”.

(7) “Tương lâm”: là nói về sáu khí đưa tới (đi đến, xen lên, xen vào). Đây, tổng kết tiết trên, nói về: cái khí Tư thiên, Tại toàn, thì trên dưới cùng gặp nhau; mà cái khí cùa tà hữu “gián khí”, thì do bốn mùa để “gia lâm”. Như cái khí cùa Thái dương hàn thủy, “gia lâm” về nửa năm trước, thì cái khí thừ nhiệt cùa Thiếu âm, Thiếu dương, sẽ “gia lâm” về nửa năm sau, chi nói hai khí hàn thừ, mà tất cả sáu khí đều có thể suy ra biết được.

(8) Đây nói về sáu khí gia lâm, cùng với sáu khí chù về mùa, có khi tương đắc và có khi không tương đắc. Tương đắc như: Cái khí cùa Thiếu âm quân hỏa, với cái khí của Thiếu dương tướng hỏa cùng hợp, đó là quân thần tương đắc, ví quân vị ờ trên mà thần vị ờ dưới. Vậy, quân hỏa “gia lâm” lên trên tướng hòa là đúng nếu tướng hỏa lại “gia lâm”, lên trên quân hỏa, thế là Dương khí sụt xuống. “Thượng” không giữ được đúng địa vị nữa. Sự thuận nghịch của sáu khí, sinh ra bệnh hay không sinh bệnh, cũng theo một ti lệ như vậy.

NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN
NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN

(9) Động, tĩnh là cái đạo cùa trời đất, ở trên thì Tư thiên, ờ dưới thì nhiễu địa. Như năm Tý, Thiếu âm ờ trên, thì Dương minh sẽ ờ dưới. Chu thiên 365 ngày, thì ờ phần trên hữu hành từ Thái âm, mà ứ dưới thì tả hành từ Thái dương. Trên, dưới, tả, hữu, vừa chu sáu năm Tư thiên, còn thừa Ngọ, VỊ (Mùi), Thân, Dậu, Tuất, Hợi sáu năm nữa, lại “hoàn chuyển” mà “phục hồi”. Tiết trên nói về diện Nam, diện Bắc,… Đều lấy tà ờ Đông mà hữu ờ Tây. Đây lấy đồ tượng không chia Nam, Bắc để xcm, thì ở dưới đều tà hành, mà ở trên đều hữu hành.

(10) Trời đất động tĩnh, là nói về cái khí Tư thiên, Tại toàn, “nhiễu địa” (vòng quanh trời đất) để hoán chuyển. “Ngũ hành thiên phục”, là nói: Năm vận cùng nối nhau, hết chu rồi lại bắt đầu.

(11) Đây nói về đất ờ trong bàu trời, bầu trời bọc ờ ngoài trời đất. Vì thế ncn thiên khí “hữu toàn” ở trôn, mà địa khí tà chuyển ở dưới. Công dụng cùa sự biến hóa. tức là nói về sự vận động cùa âm dương. Thất diệu là nhặt.

nguyệt và ngũ tinh. “Tinh” tức là “tinh thủy” do Thiên ất sinh ra. “Sự động của hình với tinh” tức là nói: Cái khí Tại toàn ở dưới đất toàn chuyển, cũng như gốc rễ không động mà cành lá động dao, nhưng căn khí lại cùng vói cành lá cùng thông. Vậy ngừa trông thiên tượng thr nhật nguyệt và ngũ tinh “nhiễu địa” để “hữu toàn”, thì đạo dù sâu xa, cũng có thể biết.

NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN
NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN

(12) Đây nói: Đất ở trong khoảng thái hư, không phải nương tựa vào đâu, chi do đại khí “mang” lên đấy mà thôi.

Án: Theo Thiên văn chí về Hồn thiên nghi giải về trời đất, có chép: “Hình trạng cùa giời tựa như trứng chim. Đất ờ bên trong, trời bọc bên ngoài cũng như lòng trắng trứng bao bọc lấy lòng đỏ ở trong. Vì tròn như viên đạn, nên gọi là “hồn thiên”. Vậy, một nửa trời treo ở ữên đất, một nửa trời bọc phía dưới đất. Cái nửa bầu trời ở phía trên đất mà ta trông thấy đó, có 182 độ và hơn nửa độ; còn ở dưới đất cũng vậy. Bẳc cực nhoi lên trên 36 độ; Nam cực chìm xuống phía dưới đất cũng 36 độ v.v.”. Xem đó thì thuyết cùa Hồn thiên, cũng thoát thai từ Tố vẩn mà ra.

NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN
NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN

(13) Đây nói về sáu khí “du hành” ở khoảng trời, đất trên dưới. Phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa, đó là cái khí vô hình ờ trời. “Can, chưng, động, nhuận, kiên, thấp”, đó là cái triệu chứng bày ra trên đất. Vì bầu trời bọc ờ ngoài trái đất, vì vậy ở trên Tư thiên, ở dưới Tại toàn và ờ trong trái đất, ngoài tám cõi, trong sáu hợp, không đâu là không đến. Hàn thủy ở dưới, mà phong do trong “địa thủy” sinh ra, nên mới nói: “Phong hàn ở dưới”. Táo là cái khí cùa Càn kim, nhiệt là cái Hỏa của Thái dương, cho nên nói “táo nhiệt ở trên”. Thổ, địa vị ờ trung ương, cho nên nói “thấp, khí ờ giữa”. Hỏa là Nguyên dương ở trong Thái cực, tức là Dương khí của trời, cho nên du hành ờ khoảng trên dưới. Dịch nói: “Nhật nguyệt vận hành, một hàn một thử”. Do sự “vãng lai” cùa hai khí hàn thử, khiến sáu thứ khí kia đều lọt vào trong dất, làm cho cái đất hữu hình, tiếp thụ cái hư khí vô hình để hóa sinh ra muôn vật.

(14) Đây tổng kết lại tiết trên nói sáu thứ khí du hành vào trong đất.

NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN
NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN

(15) “Khí của trời dất”, tức là nói về năm vận và sáu khí, “thắng, phục” là nói về “râm thẳng”, và “uất phục”. Đây nói: Do sự biến của “khí, vận” khiến dân phát sinh bệnh tật, không thể dùng phép “chẩn, hậu” mà có thể biết được. Bời năm, có sáu khí Tư thiên, có năm vận chủ tuế, lại có sự “Gia lâm” của gián khí, và chù khí của bốn mùa. Con người sống trong khoảng “khí giao” cùa trời đất, hễ gặp một khí không hòa, sẽ gây nên tật bệnh. Vậy cái khí của trời đất và bốn mùa gây nên tật bệnh đó, không thể dùng phép chẩn mạch mà phân biệt được hòa hay không hòa.

Án: Bình Mạch Thiên nói: “Mắc bệnh phục khí, phải lấy ý để hậu (nghe); giờ ờ trong tháng; “phục” (ẩn nấp) có phục khí; nhưng nếu trước cũng có phục khí, thời hãy chẩn mạch”… Bởi cái khí cùa trời đất, một khí “râm tháng”, thời cái khí “sờ bất tháng” sẽ bị uất phục. Người cảm nhiễm phải nó mà gây nên bệnh, cái khí đó cũng phục ở trong mà không hình ra mạch, chỉ có thể dùng ý để “hậu”. Hậu ờ trong tháng này, có thứ khí nào bất hòa, thời sẽ biết được người mắc bệnh là do phục khí ấy. Nếu do phục có “uất khí” mà nó lại phát ra khiến người mắc bệnh, thì mới hiện ra mạch. Cho nên trên nói: “Ví phỏng trước có phục khí, sẽ nên xem mạch”, về chứng nói trên đây, so với các chứng do cảm phải phong, hàn, thừ, thấp. mà sinh bệnh không giống nhau.

NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN
NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN

(16) “Gián khí” tức là nói về sự “gia lâm” của sáu khí. Vì ở trên có tả hữu, dưới cũng có tà hữu, mà xen ờ vào khoảng đó cộng có sáu khí, nên gọi là “gián khí” (cái khí đi xen vào). Nó, cứ hằng năm, gia lâm vào trong bốn mùa, đều “chủ” 60 ngày, nên mới nói: “Gián khí để kỷ bộ”, bộ: sáu mươi ngày linh 87 khấc rưỡi là một bộ.

(17) Lục Vi chì luận nói: “Ở trên Thiên khu, Thiên khí làm chù, ở dưới Thiên khu, Địa khí làm chù”. Lại nói: “Gia” ấy là địa khí, “trung” ấy là thiên khí. Bời do cái khí ở dưới tà chuyển, cái khí ờ trên hùn toàn, về mùa đông làm chù 60 ngày để cho trọn một năm. Cho nên nói: “Theo cái khí ờ hên ở dưới nó ở nơi nào, để dự kỳ sự toàn chuyển tà hay hữu. Tỷ như: năm Tý, Thiếu âm ờ hên, thì Dương minh sẽ ò dưới; Thiếu âm ờ hên, thì Quyết âm ờ tả mà Thái âm ở hữu. Dương minh sẽ ở dưới thì Thái dương ở tả mà Thiếu dương ờ hữu. Bời do đẩt tà chuyển mà làm chù về sơ khí. Cho nên lấy Thái dương làm chù về tháng giêng, ngày Sóc, giờ Dần, khác thứ nhất làm bẳt đầu, thứ đến Quyết âm, thứ đến Thiếu âm, để tư (coi) cái khí của trời. Hết ba khí đó để làm chủ về nửa năm về trước. Thứ đến Thái âm, đến Thiếu dương, đến Dương minh… Lấy cái khí Tại toàn, làm trọn sáu khí và chù về nửa năm vê sau. Đêu gia lâm 60 ngày đê cho hết một năm. Sáu khí hoàn chuyển đều như vậy.

NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN
NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN

Từ Niên nói: Cái khí Tư thiên bắt đầu từ đất mà cuối cùng ờ trời; cái khí Tại toàn hát đầu từ trời mà cuối cùng ở đất. Đó là sự thăng giáng và vượng tướng <kja trời đất.

(18) “Gián khí” tức là cái khách khí gia lâm; mà ở trong một năm, lại còn có sáu khí chù thời. Như chù theo với khách thì hòa, chủ trái với khách thì sẽ sinh bệnh. Như năm Tý, Ngọ, cái khí, lúc bắt đầu, thuộc về Thái dưomg hàn thủy gia lâm, chủ khí là Quyết âm phong mộc, nếu hàn tháng được phong là “tùng” (thuận, theo), phong thắng được hàn là nghịch… Cho nên Kinh nói: “Chù thắng nghịch, khách thắng tùng”. Sáu khí đều như vậy.

(19) “Không đúng với địa vị” Tức như ở trên: “lẩy ở dưới mà làm ở trên” v.v.

NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN
NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN

(20) Như “sơ chi khí” thuộc Thái dương hàn thủy gia lâm mà lại nhiệt, “tam chi khí” thuộc Thiếu âm quân hỏa gia lâm mà lại hàn. Cái khí cùa “bản vị” thay đổi lẫn lộn như vậy, đó là sự trái ngược cùa khí. Nên mới phát sinh tật bệnh. Sáu khí đều như vậy.

(21) “Ybât thủ ” Tức là bỏ mất cái vị cần phải giữ cùa minh. Như năm Sửu, Tỵ, Thái âm Tư thiên, thì cái khách khí “sơ” sẽ chù khí, lại kiêm chù cả Quyết âm phong mộc. Vậy mà cái khí “thanh túc” nó thừa cái “sở bất thắng” để lấn hiếp, thế là Kim bị thất thủ cái bản vị của mình rồi. Đến cái khí về số “ngũ” thuộc về Dương minh thu Kim chủ khí, mà bản vị lại hư, cái “từ khí” (khí cùa con) của phong mộc phục thù, hỏa nhiệt hun lên Kim, thì chứng hận sẽ rất nguy. Vậy câu nói: “Võ phản thụ tà”, chính là nghĩa đó. Ngọc Sư nói: Kim không bỏ mất bàn vị, thì Kim khí không hư. Kim khí không hư, thì sẽ có cái thủy khí do nó sinh ra để chế hỏa. Nếu “thất thủ” thì cả hai mẹ con đều hư, nên mới là bệnh nguy.

NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN
NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN

(22) Những năm thuộc về Nam chính, Bắc chính, có chia ra “Thốn không ứng” và “Xích không ứng”. Nếu nên không ứng mà lại ứng, thế là “xích, thốn tương phản”.

(23) Những năm thuộc về Nam chính, Bắc chính, có sự “bất ứng của tả, hùn, Xích, Thốn. Bởi tả là dương, hữu là âm, Thốn là dương, Xích là âm. Nếu âm dương đều cùng ứng, sẽ chết.

(24) Đây nói tổng kết về sự gia lâm cùa sáu khí. Trước lập lấy cái năm chù khí, để suy biết cái khí Tư thiên, Tại toàn, thì cái gián khí nó ứng hiện ở tả hữu, hoặc thuận, hoặc nghịch thế nào, đều có thể biết và quyết đoán được là chết hay sống.

NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN
NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN

(25) Năm phương sinh ra năm khí của trời; năm khí sinh ra năm hành của đất. Năm hành lại sinh ra năm Vị; do năm Vị mà sinh ra năm Tàng. Năm

Tàng lại sinh ra năm thể tương hợp ờ bên ngoài. Xem đó thì biết con người nhờ trời đất và “khí, vị” cùa năm phương mà sinh ra.

(26) Đây nói về sự biến hóa khôn lường của âm dương nó vận hành ờ khoáng trời, đất và người. Làm “huyền”, làm “đạo”, làm “hóa”, làm cái năm hành có hình, và năm thể, năm Tàng. Đều là sự Thần minh diệu dụng không thể cùng cực. Nhu (mềm) là cái khí cùa phong mộc.

NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN
NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN

(27) “Tính” ở đây là nói về cái tính của năm hành. Đức, chính, biến v.v… đều là hình dung cái sự phát triển và công năng cùa phong mộc. Trời có năm hành, ngự “năm VỊ” để sinh ra hàn, thử, táo, thấp, phong; người có năm Tàng hóa năm khí để sinh ra hỳ, nộ, ưu, tư, khùng. Vậy là người nhờ năm Vị, năm khí để sinh, thế mà lại bị thương bời năm khí, năm chí, cũng như nước có thể chờ được thuyền, mà lại có khi làm đắm thuyền vậy. Phàm những chữ: “Vinh”, “tán”, “tuyền phát”, “tồi lạp” v.v… Đều do chữ phong mộc ờ trên mà dùng để hình dung cho cô vẻ mầu mỡ linh động. Đó là một thể tài riêng của Hán văn.

NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN
NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN

(28) Án: Ở mùa xuân thì nói: “Phong làm thương Can”, ờ mùa hạ thì nói: “nhiệt làm thương khí”, ở Trường hạ thi nói: “Thấp làm thương nhục”, ờ mùa đông thì nói: “Hàn làm thương huyết”, đó là nói cái bản khí cùa bốn mùa tự thương. Riêng ờ mùa thu thì nói: “Nhiệt làm thương bì mao…” Đó là bị cái khí sờ thắng nó làm thương. Đó là có ý nói: Năm Tàng có khi bị thương do bản khí của bổn mùa, nhưng cũng có khi bị thương do cái khí “sở thắng”, đem cái sự không giống của một Tàng nêu ra, có thể suy ra cả năm Tàng.

Ngọc Sư nói: Thu nối theo cái khí nóng cùa mùa hạ, biến viêm thước làm thanh lương (mát mẻ). Nếu cái khí viêm nhiệt vẫn chưa hết, thì sẽ bị nó làm hại mà sinh bệnh.

NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN
NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN

 

Bài trướcTHIÊN NGUYÊN KỶ ĐẠI LUẬN
Bài tiếp theoKHÍ GIAO BIẾN LUẬN THIÊN

BÌNH LUẬN

Nhập nội dung bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.