Tỷ lệ mắc bệnh do Chlamydia trachomatis gần gấp đôi tỷ lệ nhiễm bệnh lậu. Các chủng huyết thanh D-K gây nên những bệnh nhiễm trùng tiết niệu-sinh dục và, nếu được lây truyền dọc, sẽ gây nên viêm kết mạc hay viêm phổi ở trẻ sơ sinh.

Những chủng huyết thanh L1-3 gây nên bệnh Lymphogranuloma venereum (u hạt lymphô hoa liễu). Bệnh này thường được xem là một bệnh nhiệt đới, hiếm khi xảy ra ở những nước công nghiệp hoá. Tuy nhiên, trong vài năm nay, Lymphogranuloma venereum đã có một cuộc hồi sinh ở Châu Âu và Mỹ (Gotz 2004, Krosigk 2004). Những đợt dịch như đã mô tảđang được những cơ quan có thẩm quyền giám sát quốc gia và quốc tế điều tra, chủ yếu nhằm vào các chiến lược xử lý bệnh.

Triệu chứng

Ở đàn ông, nhiễm trùng sinh dục do Chlamydia thường là không có triệu chứng. Nếu có triệu chứng, chúng thường biểu hiện như tiết dịch niệu đạo, đau mơ hồ hay đau dạng nóng rát vùng sinh dục. Cũng giống như trong bệnh lậu, viêm mào tinh, viêm tiền liệt tuyến hay viêm trực tràng có thể xảy ra. Cũng có thể có hội chứng Reiter với tam chứng viêm khớp phản ứng, viêm kết mạc và viêm niệu đạo.

Ở phụ nữ, nhiễm trùng do Chlamydia thường không có triệu chứng gì. Nhưng trong khoảng 20% bệnh nhân nữ, những triệu chứng không đặc hiệu như dịch mủ âm đạo, đái nóng rát, hay thường gặp hơn là đái nhiều có thể xảy ra như là biểu hiện của viêm niệu đạo hay viêm cổ tử cung. Một vài người bệnh cũng than phiền về bệnh lý viêm nhiễm tiểu khung bao gồm cả viêm phần phụ. Mẫu bệnh lý này có thể dẫn đến những biến chứng về sau như là vô sinh hay có thai ngoài tử cung do tắt nghẽn vòi trứng.

Trong bệnh Lymphogranuloma venereum, một tổn thương tiên phát xảy ra ở vị trí đi vào. Vài tuần lễ sau đó, một hạch sưng đau xuất hiện và ngày càng lộ rõ ra chủ yếu ở một bên. Những hạch lymphô sưng to này có thể phát triển thành một hạch lớn, có khuynh hướng loét ra, có khả năng gây thành sẹo và phù bạch mạch.

Chẩn đoán

Người ta có thể chẩn đoán nhiễm trùng do Chlamydia đơn thuần chỉ dựa vào các triệu chứng lâm sàng. Các phương pháp khuếch đại gen (PCR, LRC) là những phương pháp tốt nhất để xác định chẩn đoán. Độ nhậy là cao hơn, trong lúc độ đặc hiệu là hầu như bằng những kết quả có được từ nuôi cấy (Morre 2005). Để có được những kết quả tốt nhất, nên dùng một mẫu bông gòn khô để thu gom các tế bào biểu mô, và phải gửi ngay đến phòng thí nghiệm trong vật dụng bảo quản khô.

Cũng có thể dùng những xét nghiệm trực tiếp khác như là ELISA hay miễn dịch huỳnh quang trực tiếp, nhưng những xét nghiệm này không đủ tính nhậy ở những cộng đồng dân cư có tỷlệ mắc bệnh thấp.

Điều trị

Điều trị được chọn lựa là doxycycline, 2 x 100 mg trong 7 ngày. Các phác đồ hướng dẫn điều trị quốc tế cũng khuyến cáo dùng 1 g azithromycin, liều duy nhất, như là một trị liệu có hiệulực tương đương, nhưng chi phí lại gấp đôi so với doxycycline ở nhiều nước. Ngoài ra đểthay thế, có thể dùng ofloxacin 2 x 200 mg hay erythromycin 4 x 500 mg trong 7 ngày.

Lymphogranuloma venereum cần được điều trị lâu hơn, với doxycycline dùng trong ít nhất là 3 tuần.

BÌNH LUẬN

Nhập nội dung bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.