Nguyên nhân

Não được nuôi bằng máu nhận từ các động mạch của lục giác Willis. Lục giác Willis nằm ở đáy não và có cấu trúc của một vòng tròn do các động mạch giao nhau tạo thành, từ đó phân thành nhiều nhánh đến khắp nơi trong não bộ.

Các động mạch này đem dưỡng chất đến cho tế bào não (glucose và oxygen). Các vị trí kết nối giữa các động mạch với nhau có thể trở thành điếm yếu. Các điểm yếu này phình ra chứa đầy máu tạo thành các túi phình của mạch máu gọi là túi phình động mạch. Các túi phình này có thể bị nứt hoặc vỡ ra và gây chảy máu vào vùng mô chung quanh. Trước kia các túi phình được cho là do bẩm sinh, hiện nay chúng được xem là hậu quả của các tổn thương vi mô trên thành các động mạch tạo bởi dòng chảy bất thường ở vị trí giao nhau của các động mạch.

Còn một số nguyên nhân hiếm gặp khác gây túi phình động mạch. Túi phình động mạch có thể do nấm ký sinh trên thành động mạch. U bướu và chấn thương cũng có thể gây nên túi phình động mạch. Nghiện ma tuý, đặc biệt là cocaine, có thể gây viêm và làm suy yếu thành động mạch.

Triệu chứng bệnh

Phình động mạch não là một bệnh lý thường gặp. 1% số trường hợp ngẫu nhiên phẫu tử thi cho thấy có phình động mạch não. Đa số phình động mạch thường nhỏ, không gây biến chứng và không được phát hiện. Tuy nhiên một số khác có thể lớn dần, chèn ép nhu mô não và thần kinh chung quanh, gây các triệu chứng như:

  • Nhức đầu: Nhức đầu dữ dội xảy ra khi nứt phình động mạch não. Máu kích thích nhu mô não và gây đau đớn nhiều. Bệnh nhân có thể mô tả rằng đây là một cơn đau đầu “tệ hại nhất xảy ra trong đời”. Khi đó bác sĩ cần phải nghĩ đến khả năng có phình động mạch não. Có thể kèm theo buồn nôn và nôn.
  • Tê, hoặc yếu một bên mặt.
  • Dãn đồng tử một bên.
  • Thay đổi thị lực.

Điều đáng lo ngại nhất là khi nứt hoặc vỡ ra, các phình động mạch não có thể gây tai biến mạch não hoặc tử vong. Thường chảy máu vào màng nhện (một trong các màng bao não và ống tuỷ sống) và được gọi là xuất huyết dưới màng nhện. Xuất huyết dưới màng nhện có thể gây đau và cổ cứng.

Chẩn đoán phình động mạch não

  • Chẩn đoán phình động mạch não bắt đầu bằng bằng ý thức cảnh giác cao độ của người thầy thuốc. Tiền sử có những cơn nhức đầu và sự xuất hiện cơn nhức đầu khủng khiếp nhất trong đời, kết hợp với dấu hiệu cổ cứng và tình trạng nặng của bệnh nhân khi thăm khám có thổ giúp thầy thuốc cho chỉ định làm MSCT 64 lát cắt vùng đầu. Kết quả sẽ cho thấy có xuất huyết dưới màng nhện ở 90% bệnh nhân vỡ phình động mạch não ở một số ít trường hợp không phát hiện được bằng CT, bác sĩ sẽ tiến hành chọc dò tuỷ sống để xác định có máu chảy ở khoang dưới nhện và hoà vào dịch não tuỷ.
  • Nếu kết quả chụp MSCT hoặc chọc dò tuỷ sống phát hiện có xuất huyết, bệnh nhân sẽ được chụp động mạch não bằng DSA (chụp mạch máu xoá nền) để xác định vị trí túi phình và lên phương án điều trị. Các kỹ thuật mới kết hợp chụp mạch máu với CT hoặc MRI (cộng hưởng từ).

Dù các triệu chứng gợi ý nghĩ nhiều đến túi phình động mạch não, ta cũng nên lưu ý chẩn đoán phân biệt với các bệnh lý khác có các triệu chứng và dấu hiệu thần kinh tương tự như nhức nửa đầu, viêm màng não, u não, tai biến mạch não (thuyên tắc, huyết tắc mạch não). Dựa trên từng trường hợp, thầy thuốc sẽ quyết định việc chỉ định các xét nghiệm cận lâm sàng để hỗ trợ chẩn đoán.

Điều trị túi phình động mạch não

Điều trị dựa trên việc sửa chữa lại mạch máu bị tổn thương. Hai phương pháp thường dùng là kẹp (clipping) và đặt vòng (coiling).

Kẹp (clipping): Bác sĩ phẫu thuật thần kinh mổ sọ não hở, xác định vị trí mạch máu tổn thương và đặt một clip (kẹp mạch máu) ngang qua túi phình. Việc làm này sẽ ngăn máu không chảy vào túi phình nữa. Túi phình sẽ ngừng tăng trưởng và chấm dứt nguy cơ nứt vỡ gây xuất huyết.

Đặt giá đỡ hình vòng xoắn và bít túi phình (coiling): Bác sĩ X Quang can thiệp sau khi đã xác định vị trí của túi phình bằng chụp mạch máu cản quang sẽ luồn một giá đỡ dạng vòng xoắn và sợi bằng platin hoặc latex vào vị trí túi phình. Thủ thuật này sẽ ngăn chặn máu không tiếp tục chảy vào túi phình được nữa.

Cả 2 phương pháp trên đều có nguy cơ làm tổn thương mạch máu và gây xuất huyết nặng hơn, gây tổn thương các mô não kế cận, gây phản xạ co thắt mạch máu ở các động mạch chung quanh, gây thiếu máu não và gây tai biến mạch não. Do đó, trước, trong và sau phẫu thuật, phẫu thuật viên cần chú ý bảo vệ não và các mạch máu não không bị thêm những thương tổn khác.

Cần theo dõi dấu sinh tồn thường xuyên và đặt monitor theo dõi hoạt động tim, phát hiện sớm các rối loạn nhịp. Có thể dùng thuốc để dự phòng co thắt mạch máu não, các cơn động kinh, trạng thái lo lắng bồn chồn và làm giảm đau.

BÌNH LUẬN

Nhập nội dung bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.