Kháng nguyên tinh trùng

Theo lý thuyết kháng nguyên tinh trùng (antisperm antigen) có thể là đồng kháng nguyên hoặc tự kháng nguyên. Đồng kháng nguyên đối với nữ và tự kháng nguyên đối với nam. Bình thường các kháng nguyên này không qua được hàng rào máu-tinh hoàn nên tinh hoàn không bị tác động và không xảy ra hiện tượng sinh kháng thể chống tinh trùng. Tinh trùng chỉ bắt đầu được sản xuất ở tuổi dậy thì, là một mô được cơ thể sinh ra, nên cũng mang tính kháng nguyên tổ chức nói chung như kháng nguyên HLA. Nhưng do tinh trùng được sản xuất khi hệ thống miễn dịch của cơ thể đã hoàn chỉnh cho nên mới có hiện tượng tự kháng thể chống tinh trùng. Hệ thống miễn dịch chung hoặc cơ chế điều hoà miễn dịch tại chỗ phải được phát động gồm:

  • Hoạt động của tế bào ức chế.
  • ức chế không đặc hiệu trong tinh hoàn.
  • Giảm sự có mặt của kháng nguyên trong tinh hoàn.
  • Những lympho bào qua tinh hoàn.

Những kháng nguyên tinh trùng mà bị kháng thể tinh trùng trực tiếp chống lại vẫn chưa được hiểu biết rõ. Bằng các kỹ thuật khác nhau đã xác định được kháng nguyên tinh trùng có cả vai trò của phần protein và phần của carbonhydrate. Chỉ có kháng nguyên tinh trùng LDH-X đã biết rõ đặc điểm, nó đồng enzym của LDH, giới hạn cơ bản với tinh trùng. Kháng nguyên nhóm máu ABO được biểu hiện trên bề mặt tinh trùng trong tinh dịch. Kháng nguyên hoà hợp mô, có thể hiện diện trên tinh trùng do di truyền mà không hấp thu từ tinh dịch. Sự hiện diện của kháng nguyên HLA trên tinh trùng vẫn còn bàn cãi, tuy vậy có một số bằng chứng, minh chứng thể hiện cả 2 lớp không rõ rệt, lớp 1 và 2 kháng nguyên HLA của tinh trùng cũng như sự có mặt của mRNA cho kháng nguyên HLA lớp 2.

Dù tinh trùng trong ống sinh tinh bị biệt lập khỏi hệ thống miễn dịch của vật chủ là nam giới, nó vẫn có mối liên quan phức tạp với vi môi trường tinh hoàn. Mặc dù các bạch cầu hỗ trợ T (T- helper) chiếm ưu thế trong mô kẽ đường sinh dục nam, phần lớn bạch cầu dính vào bề mặt ngăn sát lòng ống của biểu mô sinh dục, đồng thời cũng xuất hiện nhiều tế bào ức chế T (T- suppressor). Tỷ lệ của các lympho bào này là rất quan trọng vì các tế bào miễn dịch trung gian chứa chất kháng nguyên dò ra từ đường sinh dục nam. Với tỷ lệ ổn định, kích thích kháng nguyên gây ức chế hơn là hoạt hoá đáp ứng miễn dịch. Bằng cách tương tự, các tế bào cần thiết để hoạt hoá thể dịch hoặc đáp ứng miễn dịch trung gian (lympho bào B) hầu như không có trong nhiều đoạn của đường sinh dục nam, đặc biệt trong mào tinh. Trên thực tế các lympho bào B này được xác định có trong đường sinh dục nam, chỉ khi chấn thương quanh tuyến tiền liệt. Tỷ lệ đa số của chất ức chế đối với yếu tố hỗ trợ bạch cầu T tồn tại trong đường sinh sản nam, ở lưới tinh, mào tinh, ống dẫn tinh và tuyến tiền liệt. Vai trò quan trọng của đáp ứng miễn dịch trung gian tế bào chống lại tinh trùng đã được tổng kết gần đây bởi Andesion và Hill. Vấn đề xuất hiện là ức chế hoạt hoá miễn dịch bởi chất ức chế lymphoT có thể chỉ ở mức độ kiểm soát miễn dịch, phản ứng tương tác giữa tế bào-hệ thống miễn dịch trung gian và hệ thống sinh sản có thể xuất hiện theo kiểu cytokin và monokin. Các chất này được bạch cầu sản xuất, bước đầu đã hiểu được khả năng tương tác giữa chúng với các tế bào trong đường sinh dục nam.

Các kháng nguyên tinh trùng được cho là tự chúng ức chế miễn dịch, bởi vì động vật trước khi tiêm kháng nguyên tinh trùng, được loại bỏ bổ thể sẽ xuất hiện viêm tinh hoàn dị ứng. Hiện tượng viêm sẽ không xuất hiện nêú trước thực nghiệm động vật được sử dụng chất ức chế miễn dịch (Cyclophosphamid).

Kháng thể chống tinh trùng

Kháng thể chống tinh trùng (antisperm antibodies) có thể tìm thấy trong huyết thanh cả hai giới, huyết tương tinh dịch, trên bề mặt tinh trùng và dịch nhầy cổ tử cung. Kháng thể chống tinh trùng có thể trong huyết thanh rồi đi vào huyết tương tinh dịch hoặc chất nhầy cố tử cung qua đuờng rò rỉ (transudation), hoặc được sản sinh tại chỗ của đường sinh dục nam hay ở cổ tử cung.

Kháng thể chống tinh trùng có thể ảnh hưởng đến sinh sản bằng cách làm giảm khả năng vận động hoặc tăng số lượng tinh trùng không hoạt động, tác động đến sự xâm nhập của tinh trùng qua dịch nhầy cổ tử cung, làm biến đổi tiềm năng và phản ứng cực đầu, can thiệp vào phản ứng giữa tinh trùng và noãn.

Kháng thể chống tinh trùng được phân làm hai loại: kháng thể bất động tinh trùng (immobniáng-cell toxic) và kháng thể ngưng kết tinh trùng (agglutinating antibody). Phần lớn IgG và IgM được tìm thấy trong huyết thanh, trong khi IgA có mặt trong đường sinh dục. Trên thực nghiệm, IgA tác động đến sinh sản khụ nó hiện diện trên màng của đầu tinh trùng. Nếu IgM có ở đầu và đuôi tinh trùng, cũng là nguyên nhân làm giảm nhiều thụ thai.

Witkin giả thuyết rằng, có ba cơ chế hình thành kháng thể chống tinh trùng ở đàn ông:

  1. Giảm số lượng hoặc hoạt tính các tế bào ức chế -T trong đường sinh dục.
  2. Thiếu hoặc không có các yếu tố trong dịch đường sinh dục nam, chất cần thiết để ức chế tế bào.
  3. Kháng nguyên tinh trùng thay đổi, làm cho không đủ ức chế đáp ứng miễn dịch.

Các cơ chế này có thể được bổ sung một số vấn đề hoặc là sau thắt ống dãn tinh, chấn thương, xoắn tinh hoàn, nhiễm khuẩn, hoặc tắc đường sinh dục nam, tinh hoàn ẩn, giãn tĩnh mạch tinh, sinh thiết tinh hoàn, tình dục đổng giới giao hợp vào trực tràng…

Người ta nhận thấy rằng, huyết tương tinh dịch nam giới sau thắt ống dẫn tinh, thường không có kháng thể chống tinh trùng. Mặc dù phần lớn đàn ông này biểu hiện có kháng thể chống tinh trùng trong tuần hoàn. Ngược lại đàn ông đã nối ống dẫn tinh thường có kháng thể chống tinh trùng trong huyết tương tinh dịch. Điều này nói lên rằng phục hồi lưu thông ống dẫn tinh cho phép xác định vị trí hình thành kháng thể chống tinh trùng sau thắt ống dẫn tinh.

BÌNH LUẬN

Nhập nội dung bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.