Thắt ống dẫn tinh

Thắt ống dẫn tinh triệt sản (Vasectomy) là nguyên nhân hàng đầu sinh kháng thể chống tinh trùng. Nghiên cứu kháng thể chống tinh trùng sau thắt ống dãn tinh ở động vật và người cho thấy kháng thể tăng về tỷ lệ. Tỷ lệ người thắt ống dẫn tinh có kháng thể chống tinh trùng trong máu từ 50-80% (phụ thuộc vào kỹ thuật thử). Các yếu tố ảnh hưởng tới hình thành kháng thể sau thắt ống dẫn tinh là rất nhiều.

Witkin và đồng nghiệp phát hiện ra rằng, kháng nguyên tinh trùng kết hợp với phức hợp miễn dịch trong máu ngoại vi có thể tìm thấy sau thắt ống dẫn tinh ít tháng. Những kháng thể gắn vào phức hợp miễn dịch không thể xác định được bằng phần lớn phản ứng tìm kháng thể chống tinh trùng. Vì lý do này, tỷ lệ hình thành kháng thể chống tinh trùng sau thắt ống dẫn tinh có thể cao hơn 50-80%. Nhìn chung tỷ lệ mang kháng thể chống tinh trùng từ điểm đỉnh 6-12 tháng sau thắt ống dẫn tinh giảm xuống còn khoảng 30% vài năm sau đó. Dù cho yếu tố thời gian liên quan tới biến đổi hoạt tính của kháng thể chống tinh trùng. Kháng thể chống tinh trùng có thể xác định sớm nhất khoảng 2 tháng hoặc chậm nhất 20 năm sau thắt ống dẫn tinh. Sotolongo giả thuyết rằng, tất cả đàn ông thắt ống dẫn tinh khởi đầu không có đáp ứng kháng thể chống tinh trùng, bởi vì khả năng thay đổi GEN hoặc ức chế đáp ứng miễn dịch của thử nghiệm osterone có nồng độ cao trong máu. Dù đáp ứng trung gian tế bào đối với kháng nguyên tinh trùng là không đặc hiệu, nhưng ức chế phản ứng quá mẫn trên da đối với các kháng nguyên tinh trùng ở nam giới sau thắt ống dẫn tinh đã được Alexander và Anderson báo cáo.

Mối liên quan chặt chẽ giữa nồng độ kháng thể chống tinh trùng trong máu ngoại vi nam giới sau thắt ống dãn tinh và hậu quả vô sinh sau phẫu thuật nối ống dẫn tinh vãn khó đánh giá. Nhìn chung, hiệu giá cao của kháng thể kết dính hoặc bất động trong huyết thanh đàn ông trước nối ống dẫn tinh ít có sự đảm bảo rằng người đó sẽ thành công về mặt sinh sản sau phẫu thuật nối ống dẫn tinh.

Một số nghiên cứu trong nước trên cộng đồng sau thắt ống dẫn tinh, tác giả Trần Thị Chính và cộng sự cho biết tỷ lệ có kháng thể chống tinh trùng là 48,8%. Theo (Trần Quán Anh; Luận án TS Lê Văn Vệ) trong nhóm phẫu thuật nối phục hồi ống dẫn tinh sau thắt, tỷ lệ người mang kháng thể chống tinh trùng trước mổ là 53,3% và hiệu giá cao nhất là 1/32. Sau mổ nối ống dẫn tinh kháng thể chống tinh trùng giảm cả về tỷ lệ lẫn hiệu giá [97].7

Có điều được giả thuyết rằng sự hình thành u hạt tinh sau thắt ống dẫn tinh sẽ làm tãng rủi ro hình thành kháng thể chống tinh trùng, u hạt chứa các bạch cầu không qua lọc xuất hiện như là đáp ứng miễn dịch đối với các kháng nguyên tinh trùng, nó rò vào tổ chức quanh ống dẫn tinh bị cắt. Mối liên quan chặt chẽ giữa u hạt tinh và hoạt hoá kháng thể chống tinh trùng, dù sao vẫn chưa được xác định rõ ràng [2], và đàn ông có u hạt tinh lớn có thể không cần phải xác định kháng thể chống tinh trùng.

Tắc ống dẫn tinh do bệnh lý bẩm sinh hoặc mắc phải cũng giống thắt ống dẫn tinh. Hendry và cs [12] báo cáo ràng 26 (81%) trong 32 đàn ông tắc ống dãn tinh một bên tìm thấy kháng thể bất động tinh trùng trong huyết thanh của họ. Tương tự Girgis và Cs [7] báo cáo rằng 10 (72%) trong số 14 đàn ông không có đoạn ODT bẩm sinh tìm thấy kháng thể bất động, hoặc ngưng kết trong huyết thanh. Quan tâm trong nghiên cứu này không phải là một số lớp globulin miễn dịch có thể xác định trong tinh dịch của nam giới bị tắc đường sinh dục. Điều này ám chỉ rằng nguồn gốc của globulin miễn dịch trong plasma tinh dịch không rò qua đường tuyến tiền liệt, nhưng có thể là kết quả của sản xuất hoặc rò rỉ từ những vùng quanh đường sinh dục nam. Tóm lại, tinh trùng tiếp tục sản xuất trong tinh hoàn của nam giới bị tật tắc đường sinh dục bẩm sinh, có thể gây ra rò kháng nguyên tinh trùng và dẫn đến hậu quả giống kích thích kháng nguyên tinh trùng đối với hệ thống miễn dịch.

Sinh thiết tinh hoàn

Sinh thiết tinh hoàn cũng là nguyên nhân của hình thành kháng thể chống tinh trùng, khi thao tác làm tổn thương cơ chế bảo vệ của hàng rào máu -tinh hoàn. Hjort và Cs [13] báo cáo rằng 6 (17%) trong 35 đàn ông sinh thiết tinh hoàn xuất hiện kháng thể ngưng kết tinh trùng có hiệu giá thấp trong huyết thanh của họ. Dụng ý của báo cáo này là nhiều tổn thương đối với tinh hoàn làm tăng khả năng đáp ứng miễn dịch chống lại tinh trùng. Ansbacher và Gangai [4] báo cáo rằng không tìm thấy kháng thể bất động hoặc ngưng kết tinh trùng 14 ngày sau sinh thiết tinh hoàn. Báo cáo này có thể hiểu rằng, việc kiểm tra kháng thể chống tinh trùng đã được tiến hành quá sớm sau sinh thiết. Dù cho một số nghiên cứu cho rằng, tổn thương hoặc chấn thương sinh dục làm tăng rủi ro hình thành kháng thể chống tinh trùng, các nghiên cứu khác thất bại trong việc xác định sự kết hợp này.

Chấn thương tinh hoàn

Xoắn tinh hoàn là hình thức chấn thương đường sinh dục nam, nếu tinh hoàn chấn thương không bị cắt bỏ trong thời điểm xoắn ở động vật sau tuổi trưởng thành, ngay sau đó có khả năng xảy ra đáp ứng miễn dịch chống lại kháng nguyên tinh trùng, hậu quả là tinh hoàn tổn thương mãn tính. Khó mà chứng minh bàng tư liệu về sự hình thành kháng thể chống tinh trùng sau xoắn trong huyết thanh hoặc trên bề mặt tinh trùng. Mặc dù tổn tại chấn thương mạn tinh hoàn đối diện (Bệnh lý tinh hoàn giao cảm) và làm giảm sinh sản sau xoắn là sự kiện tư liệu tốt trong các nghiên cứu. Ngăn ngừa quá trình bệnh lý thương tổn tinh hoàn giao cảm bằng các hormon corticotrophic. Không xuất hiện kháng thể chống tinh trùng sau xoắn trước tuổi trưởng thành, nguyên nhân của thiếu kháng nguyên tinh trùng trưởng thành, chất cần để kích thích đáp ứng miễn dịch gây tổn hại sinh sản. Như vậy, ở những trường hợp xoắn tinh hoàn trước tuổi trưởng thành có lẽ nên quan tâm đến thiếu máu tinh hoàn hơn là kháng thể chống tinh trùng.

Tinh hoàn ẩn là nguyên nhân tiềm tàng gây tổn thương tinh hoàn, nó có thể làm tăng nguy cơ hình thành kháng thể chống tinh trùng. Trên lâm sàng người ta quan tâm đến kiểu tinh hoàn ẩn, trên thực tế là 10% đàn ông có tinh hoàn ẩn một bên và 70- 80% hai bên sẽ bị vô sinh. Koskimies và Hovatta [14] tìm thấy 3/23(13%) đàn ông tinh hoàn ẩn có kháng thể ngưng kết tinh trùng trong huyết thanh. Kiểm tra plasma tinh dịch có kháng thể chống tinh trùng chiếm tỷ lệ 2/3 với hiệu giá >1/4.

Varicocele cũng là nguyên nhân kết hợp gây vô sinh, một số nghiên cứu công bố rằng, bệnh lý này có thể làm tăng tỷ lệ kháng thể chống tinh trùng. Theo Oen và Cs [17] tìm thấy 16/65(25%) varicocele một bên có kháng thể chống tinh trùng. Golombvà Cs [9] báo cáo rằng 29/32(91%) varicocele sờ thấy có kháng thể chống tinh trùng. Vấn đề quan tâm ở đây là, không có mối quan hệ giữa loại globulin miễn dịch trong huyết tương tinh dịch đàn ông và globulin miễn dịch trên bề mặt tinh trùng. Có thể giải thích rằng, trong thử nghiệm huyết tương tinh dịch, sử dụng tinh trùng đã được cố định từ trước bằng hoá miễn dịch, nó được coi như là một kháng nguyên. Trong thử nghiệm trên người, xác định hiện tượng tinh trùng kết hợp với kháng thể, kháng thể sẽ gắn vào tinh trùng đã được cố định từ trước. Tuy vậy vẫn cần nghiên cứu bổ sung để xác định ảnh hưởng của varicocele sờ thấy đến sự hình thành kháng thể chống tinh trùng.

Nhiễm khuẩn đường sinh dục

Một số nghiên cứu phát hiện ở đàn ông có tiền sử nhiễm khuẩn đường sinh dục thì tỷ lệ hình thành kháng thể chống tinh trùng tăng cao so với nhóm không có tiền sử viêm nhiễm. Andrada và Cs chứng minh mối liên quan có ý nghĩagiữa viêm tinh hoàn do quai bị và kháng thể chống tinh trùng trong huyết thanh. Nhưng lại không thấy mối liên quan tương tự giữa nhiễm Mycoplasma và kháng thể chống tinh trùng trong huyết tương tinh dịch. Tuy vậy bằng kỹ thuật ELISA sử dụng tinh trùng được bất động bằng glutaraldehyd, Witkin và Toth tìm ra tỷ lệ kháng thể chống tinh trùng ở nam giới có tiền sử nhiễm khuẩn đường sinh dục. Vấn đề quan trọng là ở chỗ, kháng thể chống tinh trùng được cố định bằng glutaraldehyde vẫn chưa rõ ràng, vẫn là vấn đề khó khăn để đánh giá đầy đủ tầm quan trọng của nhiễm khuẩn đường sinh dục trong hình thành kháng thể chống tinh trùng ở nam giới.

Khi mà nhiều nam giới có kháng thể chống tinh trùng, nhưng lại không tìm thấy sự hiện diện của các nguyên nhân trên. Vậy gen có vai trò gì trong quá trình hình thành kháng thể chống tinh trùng. Hancock cs và Law cs…nhận thấy kháng thể chống tinh trùng kết gắn với HLA antigen A28.

Đàn ông loạn dâm cùng giới, đặc biệt dạng thích giao hợp qua trực tràng có tăng tỷ lệ kháng thể chống tinh trùng. Một số nghiên cứu đã báo cáo rằng sự hình thành kháng thể chống tinh trùng trong nhóm đàn ông này có thể đóng vai trò phát triển hội chứng AIDS. Một số kháng thể đơn clone chống lại tế bào hỗ trợ T (OKT4), có thể tạo phản ứng chéo với các kháng nguyên màng plasma tinh trùng người. Loạn dâm đường miệng ở người có làm tăng rủi ro hình thành kháng thể chống tinh trùng hay không, vẫn chưa rõ ràng, nhưng trên thực nghiệm lại rất rõ ràng. Gilbert mô tả đặc điểm 1452 đàn ông được xét nghiệm tìm kháng thể chống tinh trùng bằng phương pháp phóng xạ kháng globulin. Trong số này 12,5% có kháng thể chống tinh trùng là loại IgG. Trong 288 người thử, tìm thấy 11% IgG trên màng tinh trùng của họ ; 11% có IgA; 90% người vô sinh nguyên phát có thời gian trung bình 5 năm. Tuổi trung bình của đàn ông có kháng thể chống tinh trùng là 33,7 năm. ở đây không có sự kết hợp bất thường về tinh dịch và sự hiện diện của kháng thể chống tinh trùng, mà chỉ 20% trong số thử nghiệm sau giao hợp có tinh trùng kết hợp với globulin miễn dịch.

Bài trướcẢnh hưởng của kháng thể chống tinh trùng đối với tinh trùng
Bài tiếp theoChẩn đoán xác định kháng thể chống tinh trùng

BÌNH LUẬN

Nhập nội dung bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.