CHỮA U NANG BUỒNG TRỨNG BẰNG ĐÔNG Y
Biện chứng Đông y:
Huyết ứ ngưng kết.
Cách trị:
Phá huyết nhuyễn kiên, lý khí hành trệ.
Đơn thuốc:
Gia vị hoá kiên thang.
Bài thuốc:
Đào nhân 9g, Hạnh nhân 9g, Quất bì 9g, Đơn bì 9g, Quế chi 9g, Cam thảo 6g, Đại hoàng 10g, Giấm 30g, Mật (cho vào nước thuốc quấy uống) 30g, Sắc uông mỗi ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng:
Tiêu XX, nữ, 31 tuổi, nông dân, đã kết hôn. Sau khi có chồng đã sinh một cháu trai, 8 năm sau vẫn không có thai. Từ năm 1950, sau khi sinh 1 lần, kinh nguyệt bị rốì loạn, lúc đầu bụng dưới đầy đau, có khôi u cứng, bệnh viện khám, chẩn đoán là u nang buồng trứng. Năm 1955 bụng to dần giống như cái bình, nằm rất khó khăn, gia đình đã chuẩn bị hậu sự. Ngày 5/10/1975 đến Đông y điều trị. Khám hình dung tiều tuỵ, lông tóc rụng, nói không ra tiếng, khuỷ tay và đầu gối đều bị tổn thương, xây xát, mạch Tế Sác, lưỡi ít rêu, thân lưỡi gầy, mỏng, có dấu răng, bụng to như có thai, cứng như đá, đè rất đau, không di chuyển, gân xanh nổi lên, rốn hơi lồi ra, âm đạo xuất huyết không ngừng.
Đây là chứng ‘huyết trưng’. Luận trị phải phá huyết tiêu kiên, lý khí hành trệ. Dựa theo ý của người xưa ‘Đại thực hữu doanh trạng*, dùng phương pháp tiên công hậu bổ, dùng Gia vị hoá kiên thang. Ưống 1 thang, thấy âm đạo ra một ít vật hôi thối, bụng nhỏ bớt, tinh thần tỉnh táo, thèm ăn. Uống thêm 1 thang, âm đạo bài xuất nhiều chất bẩn giông sợi. Khám lần thứ 3, vùng bụng so với trước kia đã mềm hơn. Căn cứ lời dạy của Lý Diên là “Người trị chứng trưng hà giỏi phải điều khí phái huyết, thì bệnh đã giảm đến phân nửa”, vì vậy, cho dùng Ôn kinh thang và ỉìương sa lục quân thang thay đổi uống.
Sau khi uống 10 thang, tà khí được trừ, , chính khí được yên. Trong thời gian trị bệnh, âm đạo tiết ra bọt bẩn, ăn uốhg tăng tiến, da hồng nhuận dần. Sau đó kinh nguyệt trở lại bình thường, khỏi bệnh. Năm 1962 có thai, sinh một bé gái.
Nhận xét:
Bệnh án nêu trên thuộc loại huyết ứ ngưng kết lại thành khối u, cứng, không di chuyển, đau nhưng không cự án. Sử dụng bài Gia vị hoá kiên thang, là bài ‘Hoá kiên hoàn’ trong “Hoàng thị bát Chung” biến hoá ra, bài ‘Hoá kiên hoàn’ chuyên trị huyết trưng, khí hà. Trong bài dùng Đào nhân phá huyết; Hạnh nhân sơ Phế, hai vị đều có chất dầu, vì vậy có tác dụng hoạt lợi hạ hành; Trần bì, Quế chi vị cay, tính ấm, có tác dụng lý khí, ôn thông huyết mạch; Đơn bì hoạt huyết lương huyết; Cam thảo điều hoà các vị thuốc.
Thêm Đại hoàng để tăng tác dụng công hạ, phá ứ; Còn dấm và mật, một lấy vị chua để làm mềm khôi u, một lấy chất mật nhuận để tư bổ, khéo dùng một thu, một nhuận, để thúc đẩy khối u đi, khiến cho tà khí bị trừ đi mà không làm tổn thương chính khí, vì vậy, trên lâm sàng đã thu được kết quả tốt đẹp (Phong Minh Huệ – Bắc Kinh).