BẠCH ĐỚI HẠ
BỆNH NGUYÊN
1) Vì khi-uất, thường can. – Giận-dữ, phẫ1uất làm thương Can. Can bị thương thì Tỳ khíc. Tỳ-Kinh không kiên không thể hóa doanh-huyết ra làm kinh-thủy được. Cho nên thấp-thổ hạ hãm chất trắng chảy ra, thành bệnh Bạchi-Đới-ba.
2) Vì thấp nhiệt hàn là.- Bị thấp-nhiệt, hàn-tà phạm vào Tử Cung,doanh-huyết không theo hóa làm kinh-thủy được, do đó mà chất trắng chảy ra.
(3 Vì Thận-Khí hư nhược, – Người dâm-dục quả độ, thận khi hư nhược, cơ-năng bất lực, nên thỉnh thoảng có chất trắng chảy ra.
BỆNH TRẠNG
1) Do Tỳ Thấp hạ hãm, thì lưng đau, bạch đới ra trăng-trắng như nước gạo, tinh thần bải hoải. chân tay buôn-bã, mặt vàng vóc vỏ, thườn tức-tức ở bụng dưới.
mặt vàng vọc võ, thường thủy
2) Do tử cung bị thấp nhiệt, thì bạch đới hạ đặc và đục lờ-lờ, lưng không đau, tinh-thần bì, ăn uống vấn tiêu, duy lưỡi trắng dầy, ăn biết ngon.
3) Do Hàn-tà phạm vào Tứ-cung, thì bach đới hạ trong loãng, người sợ lạnh, thường nôn mửa, lưỡi dầy, tiều tiện trong và nhiều.
4) Do Thận khí hư nhược, thì lưng đau như gẫy, mông đau rức, bạch đới hạ như lòng trắng trứng gà, tinh-thần mỏi-mệt, hình-thể gầy còn ăn uống không tiêu.
BIẾNCHỨNG
Bệnh Bạch-Đới–Hạ do Tỳ-thấp hay do Thận khí hư mà ra, nếu chữa không dứt, để lâu, thì hư lại càng hư, Đới-hạ ra như suối, sắc trong như nước, lưng đau như gãy, hinh-thể gây-mòn, mặt phù-thũng, có thể nguy đến tinh-mạng.
PHÉP CHỮA
1) Bệnh do Tuấp-thở hạ hãm, lưng đau khi-hư ra trong vắt, tinh-thần mỏi mệt, chân tay buồn bã, nguời võ mặt vàng, nên dùng bài ” Bổ Trung Ich Khi Thang ” (1)
2) Do T-cung bị thấp-nhiệt mà sinh bệnh bạch-đới hạ đặc lờ-lờ,hay lưng không đau rức, tinh thần thường, nên dùng bài “Gia Vị Bồ Hoàng thang”
3) Do Hàn-tà phạm Tử-Cung, bạch-đời-hạ và loãng, người sợ lạnh, thường ợ chua, nên bài « Ngô Thủ Du Thang » (3) •
4) Do thàn-khi-hư sinh bệnh, lưng đau như gãy, mông rức đau, bạch đới hạ ra nhìu
như lòng trắng trứng, nên dùng bài “Thủ-ô-câu-ky-t hang “để ôn bổ.
Bạch đới do thấp thì hạ hãm, hoặc do thận khí hư nhược không chữa được khi-hư sẽ ra như suối trong nước lã, lưng đau như gãy, mặt mũi phù nề, có cơ nguy đến tính mạng, nên dùng bài « Tỳ Thận Song bổ thang (5). .
ĐIỀU DƯỠNG
1) Kiêng phòng dục. Phải tuyệt đối kiêng phòngdục, Phạm vào có khi sinh các bệnh khác không thể chữa được nữa.
2) Kiêng ăn các thứ sống và lạnh như củ cải… hoa quả mỡ màng đều phải kiêng. 3) Nên bổ dưỡng. Bệnh khỏi rồi, nên dùng thuốc bồ đề điều-dưỡng cho chính khi kiện-vượng, bệnh không trở lại nữa. Tỳ hư thì nên dùng “Tứ quân Tử hoàn” (6) ; Thận-hư thì nên dùng “Lục- Địa-hoàng hoàn ” (7).
Theo” Đông y thực hành phụ khoa” của Lê Cường (1958)