Ba Mạch Súc, Kết, Đại chủ bệnh
Phiên âm:
Dương thịnh tắc súc, Phê ung during độc. Âm thịnh tắc kết, Sán gia (ha) tích uãt. Đai tắc khí suy Hoắc tiết nung huyẽt, Thương hàn tâm quý, Nữ’ thai tam nguyệt.
Dịch nghĩa:
Dương thịnh mạch súc, Phế ung dương độc. Âm thinh thì kết Sán, báng tích uất. Mach đại khí suy là chảy máu mủ. Thương hàn hôi hộp Có thai ba tháng.
Dịch theo lời giải
Đoạn này nói về triệu chứng chủ yếu của ba mạch : Súc, Kết, Đại.
Phàm khi dương nhiệt thịnh cực làm tổn thương chân âm thi phần nhiều thấy mạch súc. Như bị phế ung là triệu chứng chú yếu là triêu nhiệt – sốt nóng có giờ, ho suyễn, nôn ra đờm mủ dính hôi thối, ngực đau, dương độc (triệu chứng chủ yếu là nổi ban đỏ tí, họng đau, thậm chí thổ huyết) cũng thường thấy mạch Súc.
Phàm khi âm tà cực thịnh, hoặc đã đến thời kỳ ngưng kết thì có thế thấy được mạch Kết, thường thấy ở các chứng Sán (tức là sán khí thống, phân nhiều hòn dái và bụng dưới đau cấp, có khi bìu dái (âm nang) trướng to), giả (trong bụng có hòn cục, khi tụ khi tan), tích (tức tích tụ), uất (uât tích, có khí uất, huyết uất, đàm uất, thực uất). Tâm quý tức là tâm hôi hộp đập rộn không yên. Nếu nguyên khí suy kiệt, đến lúc không thể duy trì tiếp tục được nữa, sẽ xuất hiện mạch Đại. Như thấy ở chứng đi ỉa chảy lâu ngày ra máu mủ, nguyên khi tổn thương tổn, hoặc bị thương hàn lâu ngày, dương hư tâm hôi hộp cũng có thế thấy mạch Đại. Phụ nữ có mang được ba tháng, lợm giọng nôn ọe nhiêu, làm cho khí cơ bị trở trệ, đến khi mạch khí khó bế tiếp tục, cũng có thể’ thấy mạch Đai.