HÌNH THÁI CÁC MẠCH
形態脈理
Dịch nghĩa
Phú mạch pháp thiên, Khinh thủ khả đắc Phiếm phiểm tai thuung, Như thủy phĩêu mộc. Hũu lưc hồng dại, Lai thịnh khứ du. Vó luc hư dại, Trì nhi thả nhu Hũu biên vô trung Hư thậm tắc tán Hoán mạn bãt thu Kỳ danh viết khâu Khâu nhi cấp huyên Cach mach sư nhiên Phu tiểu nhi nhuyên Miên phu tltũy diện Nhuyễn thậm tac vi Bất nhiêm tằin án
Mạch phù bốc lên, Nhẹ tay là thấy. Như gỗ nối bềnh, ỏ trên măt nước, mạch hông hùu lực, Nhịp dâp bền lâu. Hư đại vô lực, Dã trì lại nhu. Quá hư thì tán, Tản mạn không thu. Giũa không cạnh có, Tên gọi mạch khâu. Khâu mà huyên cấp, Mạch cách hiển nhiên. Phù tiểu ma nhuyện. Như bông trên nuóc. Nhuyễn quá là vi. Khó tìm ra mạch.
Dịch theo lời giải
Đoạn này nói vê thế trạng từ mạch phù phân tích thêm với sự khac biệt của bảy loại mạch tượng : hồng, hư, tán, khâu, cách, nhu, vi.
Hình tượng của mạch phù như dương khí trên bầu trời nhẹ nhàng nổi lên, chỉ cần đâu ngón tay đặt nhẹ vào mặt da, là có thế thấy ngay được nhịp đập của mạch, như thanh gỗ cứ nổi bênh bông trên mặt nước.
Trong mạch phù có thế thấy bấy mạch tượng khác nhau, nếu phù mà có lực, mạch thế còn biểu hiện thô to, mỗi nhịp đập qua lại, nhưng rất tràn đầy sung sức mà còn bền bỉ, đó là mạch hồng Nếu phù mà không có lực, mạch thế tuy to song rất nhu nhuyễn, nhịp đập lại tương đối trì hoãn, đó là mạch hư. Nếu mạch hư mà còn có thế hiện tản mạn không rõ rệt, ấn nặng tay hơn một chút thì không sờ thấy mạch, đó là mạch tán.
Nếu mạch phù mà trong rỗng, bên ngoài thì có chính giứa thì không, đó là mạch khâu. Mạch khâu còn huyền cấp hơn, đó là mạch cách. Nếu phù mà tế nhuyễn vô lực như một cục bông nổi lênh bênh trên mặt nước, đó là mạch nhuyễn. Nếu mạch nhuyến lại càng nhuyễn và tế tiêu (nhỏ bé) hơn, ấn nặng tay hơn thi nhịp đập như có như không, không có cách nào tìm thấy mạch, đó là mạch vi.