Làm sao cắt nghĩa được tình yêu?
Nguyễn Văn Tuấn
Để trả lời cho câu hỏi trên, có lẽ ta cần phải trước hết định nghĩa thế nào là “tình yêu”. Cũng như nhiều đặc tính khác, tình yêu có thể được định nghĩa theo nhiều quan điểm khác nhau, và bằng mọi thứ ngôn ngữ. Nhìn qua các từ điển của người Anh, Mĩ, tôi thấy họ định nghĩa tình yêu qua những danh từ nhưaffection(trìu mến),attachment(gắn bó) haydevotion(hiến dâng). Theo họ, tình yêu là một trạng thái tâm thần có tính đạo đức cao độ, mà trong đó sự trìu mến và chung thủy được dành đặc biệt cho một người. Có lẽ người Anh, Mĩ vốn máy móc, nên định nghĩa về tình yêu của họ không được uyển chuyển như người Việt Nam ta. Không như anh chàng nhạc sĩ Lionel Ritchie, sau khi đã đi lục lạo hết từ điển này đến sách vở nọ, để cuối cùng anh ta không biết dùng chữ gì khác mà phải viết “I love you” (anh yêu em,hayem yêu anh– người Anh không phân biệt anh và em!) để nói đến tình yêu, các thi sĩ của Việt Nam tài tình hơn nhiều. Trong thi văn Việt Nam, suy đi nghĩ lại, tôi vẫn thấy Xuân Diệu định nghĩa tình yêu thật tuyệt vời:
Làm sao cắt nghĩa được tình yêu!
Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt,
Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu …
Tức là, phải có một môi trường chung quanh (như một buổi chiều, gió hiu hiu, mây nhè nhẹ, v.v…) tác động tới tâm lí (hồn ta) mới gây ra được một cảm giác tình yêu, chứ triết lí suông với những từ hoa mĩ trừu tượng trong một không gian vô định nghĩa thì khó mà có thể tả được tình yêu!
Định nghĩa tình yêu của Xuân Diệu còn cho ta thấy nó là một đặc tính tâm lí (behavioral trait). Mà, một phản ứng tâm lí thường được quyết định bởi hai yếu tố quan trọng là sinh học và môi trường. Mặc dù là một đặc tính tâm lí sinh học, nhưng cho đến nay, tình yêu vẫn chỉ là một đề tài của giới văn chương, nghệ thuật. Thực vậy, tình yêu là nguồn sáng tác bất tận, một chủ đề có tính cổ điển (nhưng không bao giờ lỗi thời), của thi ca, văn chương, kịch nghệ, phim ảnh, tiểu thuyết … Nhưng một điều ngạc nhiên là tình yêu ít khi trở thành chủ đề của các cuộc thảo luận khoa học, đặc biệt là sinh học, mặc dù người ta vẫn không ngừng nói về bản chất tâm lí và hóa học của tình yêu.
Tôi có một đề nghị: tình yêu có tính di truyền. Như đề cập trên, tình yêu cần có hai yếu tố tác động: môi trường và sinh học. Tôi không bàn yếu tố nào quan trọng ở đây, vì đó không phải là đề tài của bài viết này; vả lại, ngày nay vẫn còn nhiều tranh cãi về sự tương quan cống hiến của hai yếu tố này. Mà, nói đến sinh học có lẽ ta cần phải có vài hàng về những đơn vị cơ bản được dùng để cấu tạo nên một con người.
Trong một bài nhạc, Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có ví von rằng cơ thể chúng ta được hình thành bằng “cát bụi”, và cuối cùng thì cũng trở về với cát bụi:Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi / Để một mai tôi về làm cát bụi. Tôi chắc rằng lúc viết câu này nhạc sĩ chưa học về sinh học phân tử (molecular biology), mà chỉ do ảnh hưởng triết lí Phật giáo, nhưng nói chung là ông ta rất đúng. Ngày nay, qua tiến bộ của khoa học sinh học phân tử, người ta đã biết được rằng cái đơn vị sinh học cơ bản nhất trong một con người là tế bào (cells). Cơ thể chúng ta được cấu tạo bằng hàng tỉ tế bào. Nhiều tế bào có những nhiệm vụ khác nhau, chẳng hạn như tế bào não có nhiệm vụ giữ gìn trí nhớ và tri thức, tế bào tim làm cho tim ta đập nhịp nhàng, tế bào ruột làm ra chất nhầy (mucus), v.v. Những tế bào này có thời gian tồn tại nhất định. Chẳng hạn như tế bào tinh trùng nam chỉ sống sót khoảng vài tháng, trong khi đó tế bào trứng của phái nữ có thể tồn tại đến 50 năm. Mặc dù khác nhau về chức năng và thời gian sống sót, tất cả các tế bào đều có cấu trúc giống nhau: trong mỗi tế bào đều có một cái nhân (nucleus) nằm chính giữa. Cái nhân này có chứa những chất liệu di truyền mà ta thường gọi là DNA (viết tắc từ chữ deoxyribonucleic acid). DNA là một nucleic acid được tạo thành bởi hai chuỗi gồm những đơn vị gọi là nucleotide. Hai chuỗi này xoáng với nhau thành một hình xoán kép và nối với nhau bằng những “sợi dây” hydrogen. Mỗi nhân thường có khoảng 6 triệu DNA. Một mảng DNA tạo thành một gene. Có thể ví mỗi DNA như một chữ; và nhiều chữ tạo thành một câu văn (tức là gene). Không ai biết được một cách chính xác trong cơ thể ta có bao nhiêu gene, nhưng các nhà khoa học ước đoán rằng trong cơ thể ta có chứa khoảng 30.000 – 35.000 gene. Gene có chức năng gửi các tín hiệu hóa học đi đến tất cả các nơi trong cơ thể. Những tín hiệu này có chứa đầy đủ các thông tin, các chỉ thị cụ thể cho các cơ quan trong cơ thể ta phải hoạt động ra sao.
Thành ra, có lẽ không cần phải dài dòng văn tự, tôi xin báo ngay một tin buồn cho các bạn trẻ rằng: nếu dựa trên quan điểm về sinh học, chúng ta (các bạn và tôi) là những sinh vật bất lực trong tình yêu, không có chỗ nào để chúng ta cựa quậy nhút nhít gì cả! Lí do đơn giản là như đã nói trên, trong mỗi gene có những chỉ dẫn [hay nói đúng hơn là mệnh lệnh] cho các phân tử làm việc gì và cách làm ra sao. Những mệnh lệnh này đã được soạn thảo một cách cực kì công phu và cẩn thận để chúng ta phải tuân lệnh chúng, thi hành những đường lối đã được vạch sẵn ngay từ lúc ta mới sinh ra, kể cả những điều mà bản thân ta sẽ phải khốn khổ về sau. Bởi vậy, những gene của tình yêu có một vai trò rất lớn trong tình trường trong ta, mà ta không để ý hay chưa biết. Mà, cho dù ta có biết đi nữa, những gene tình yêu này vẫn bắt buộc, theo những cách thức hoàn toàn áp đặt, ta yêu người này chứ không phải người kia, yêu vào lúc khác chứ không phải lúc này, và thậm chí lúc nào phải chia tay với tình yêu!
Nếu bạn còn nghi ngờ về điều này thì tôi xin mời bạn hãy cùng tôi xem xét vấn đề chúng ta sẽ yêu ai nhé. Do những khuyết tật về nội dòng (inbreeding), và vì quyền lợi của các gene, chúng ta không được lập gia đình với những người thân; các gene đã làm vô số lập trình để bắt buộc chúng ta phải tránh điều này. Gần đây, có một cuộc nghiên cứu thú vị trên 2796 cuộc hôn nhân của các thiếu niên sống trong các trang trại Kibbutz ở Do Thái (trong các trang trại này, trẻ em dù không có quan hệ ruột thịt, nhưng đã chung sống từ khi lọt lòng cho đến lúc trưởng thành) với kết quả là chỉ có 13 trường hợp trong đó vợ chồng cùng sống trong một trang trại. Nhưng ngay cả 13 trường hợp này cũng chỉ là những trường hợp ngoại lệ, vì khi đến sống trong các Kibbutz các em đã 6 tuổi. Đáng ngạc nhiên hơn nữa là không hề có hiện tượng quan hệ tình dục khác giới giữa các em ở cùng một trang trại. Đây là một sự kiềm chế đáng kinh ngạc trong điều kiện gần 6000 em trai và gái sống chung với nhau trong điều kiện mà mức độ hormone ở trong thời kì sung mãn nhất! Đó là cái gì nếu không phải chính các gene của chúng ta đã làm nên điều kì diệu đó.
Các gene cũng ngăn chận không cho chúng ta yêu một ai hay một cái gì đó quá ư là khác lạ, chẳng hạn như khỉ! Từ quan sát 13 đôi kết hôn sau khi gặp nhau lúc 6 tuổi hay muộn hơn, cho các nhà nghiên cứu thấy rằng cách thức các gene bắt buộc chúng ta phải tuân theo ý muốn của chúng. Hóa ra, tuổi lên 6 là thời điểm quan trọng để đứa trẻ khắc họa hình ảnh người bạn đời tương lai trong tâm khảm. Nói một cách khác, người bạn đời của chúng ta rất giống đứa bạn khác giới mà ta chơi chung năm ta lên 6 tuổi. Gene của chúng ta chọn lứa tuổi này, vì những đứa bạn lên 6 rất hợp tính, nhưng lại không có quan hệ huyết thống, với ta. Chính điều này đã tối ưu hóa đặc tính di truyền (genetic fitness).
Sau khi đã quyết định cho chúng ta phải yêu ai, các gene bèn tìm cách chọn (hay cố gắng chọn) một người bạn đời hoàn toàn phù hợp với các tiêu chuẩn do chúng đặt ra. Các tiêu chuẩn mà các gene đặt ra cho đàn ông khác với các tiêu chuẩn cho phụ nữ. Đối với các gene của đàn ông, người bạn đời lí tưởng phảitrẻvà đẹp. Tại sao lại có tiêu chuẩn trẻ ở đây? Bởi vì đối với chúng, người phụ nữ trẻ có thời gian dành cho sinh sản dài hơn. Và sinh sản nhiều cũng có nghĩa là chúng (genes) có cơ được tồn tại lâu hơn và lưu truyền đến các thế hệ mai sau. Ông Henry Kissinger, lúc về già đã chẳng dan díu và lấy cô thư kí chỉ bằng tuổi con gái ông làm vợ là gì!
Đặc tính trung bình và gene
Nhưng tại sao các gene lại thích đặc tính trung bình? Bởi vì trung bình là biểu tượng của sự cân đối (symmetry), và do đó, trung bình loại bỏ các đường nét không cân đối và các đường nét thô thiển. Sự không cân đối (asymmetry) của cơ thể là biểu hiện của các bất thường về mặt di truyền và sinh lí. Nghiên cứu y học trong những thập niên qua cho thấy người không có đường nét cân đối có nguy cơ bị bệnh nhiều hơn và bị các hội chứng Down, tâm thần phân liệt (schizophrenia), v.v… cao hơn những người có thân hình cân đối. Có thể vì lí do này mà các gene không muốn chúng ta “chung chạ” với người có mang khuyết tật di truyền. Thực ra, trung bình còn là một chỉ số tối ưu (optimal) trong hình học. Tam giác đều là tam giác có diện tích lớn nhất so với các loại tam giác khác. Hình vuông cũng là hình có diện tích lớn nhất trong các hình chữ nhật. Hình tròn cũng có diện tích lớn hơn các hình khác như ellipses. Bởi thế, sự “trung bình” trong sắc đẹp cũng có thể là một hình thể tối ưu. Nếu giả sử đẹp là một cái gì đó mà không phải là sự trung bình, thì hẳn rằng quá trình chọn lọc tự nhiên qua hàng triệu triệu năm đã kết thúc bằng một khuôn mặt người trông kì quái như chùm lông chim ở chốn địa đàng!
Sự thực là phần đông, nếu không muốn nói là tất cả, đàn ông thường bị hấp dẫn bởi phụ nữ có bộ ngực to, và cái mông nở nang, có thể chỉ đơn giản bởi vì các gene của họ muốn họ thành công trong việc duy trì nòi giống. Điều này cũng không ngạc nhiên, vì đôi bầu vú to hẳn sẽ hứa hẹn một nguồn sữa dồi dào, và mông nở nang (tỉ số eo/mông thấp) hẳn sẽ sinh nở dễ dàng.
Tuy nhiên, về cái khoản này, các gene của đàn ông dễ bị mắc lừa lắm. Bầu vú to có thể là do béo phì (hay do những lí do “nhân tạo” như silicon chẳng hạn) chứ chẳng liên quan gì đến việc có lắm sữa hay không! Rất có thể là các gene của đàn ông bắt đầu chọn lọc các phụ nữ có eo nhỏ như là một “giấy chứng nhận” ngầm nói rằng ngực họ to không phải do béo phì. Vậy là “an toàn” nhé! Tuy nhiên “giấy chứng nhận” này có khi lại là cái bẫy. Mông nở nang có thể là do ứ mỡ mà thôi! Bầu vú to, mông rộng, do đó, có thể chỉ là những quảng cáo bịp bợm! Hình như các gene của đàn ông chưa đủ thông minh để nhận ra điều này.
Thế các gene của phụ nữ đòi hỏi gì ở người đàn ông? Nói chung, chúng không khó tính lắm, chúng chỉ quan tâm đến về sắc diện bề ngoài hay tuổi tác, nhưng lại rất khắt khe xét nét về chiều cao, địa vị xã hội và của cải của người đàn ông. Ba điều kiện này đặc biệt hấp dẫn các gene của phụ nữ. Trường hợp của Monica Lewinsky và Clinton là một ví dụ điển hình. Ở Sài Gòn ngày xưa, có một ca sĩ trẻ, xinh gái và có tiếng nọ từng tuyên bố: “Tôi thà làm bé cho một ông lớn, còn hơn làm bà lớn cho một ông bé!” Quyền bính là cục nam châm làm cho các gene phụ nữ chui vào lưới tình.
Điều lạ lùng là các gene của phụ nữ còn xem xét đến cả tính chân thực, sự tử tế, và tính hào phóng của người đàn ông. Ích lợi của chiều cao, địa vị và của cải có thể giải thích bằng một mô hình mà các nhà tâm lí học thường đề cập tới là “Parasite model” (mô hình kí sinh). Theo mô hình này, vì chiều cao liên quan tới testosterone (hormone nam giới); đàn ông con trai có độ testosterone cao thường có chiều cao trên trung bình và có khả năng đề kháng các vi trùng cao. Vì có khả năng đề kháng cao, họ có thể đầu tư nhiều hơn vào việc nuôi dưỡng vợ con. Thế mấy điều kiện còn lại thì sao? Đối với các gene của phụ nữ, để tối ưu hóa sự tồn tại mãi mãi của chúng, các các gene này sẽ “mồi chài” những người đàn ông có khả năng giúp phụ nữ nuôi con suốt đời. Và bởi vậy, có lẽ lòng chân thật, lòng tử tế, và tính hào phóng là các yếu tố quan trọng ngầm nói rằng người đàn ông sẽ có khả năng làm điều này.
Nhưng tình yêu có tồn tại ở muôn loài không? Khỉ có biết yêu không? Tôi nghĩ là không, hoặc ít nhất là không theo cái cách của chúng ta. Lí do thì thật đơn giản vì con người là động vật bậc cao duy nhất tiến hóa đến mức giữa đàn ông và đàn bà có sự ràng buộc lứa đôi. Có ràng buộc lứa đôi bởi vì sự phân công lao động giữa đàn ông và đàn bà mang lại nhiều lợi ích hơn là một người làm tất cả. Đàn ông thì mang thú rừng về, còn đàn bà thì đi hái quả. Tình yêu tạo điều kiện đảm bảo cho mối quan hệ này được tiếp tục và đem lại lợi ích chung.
Cũng may mắn là các gene không thể sắp xếp hết mọi điều theo ý chúng. Thêm nữa, chúng đã phạm phải một sai lầm nghiêm trọng là tạo ra bộ não của con người. Thế là chính cái não mà các gene tạo ra lại có khả năng suy nghĩ độc lập. Bộ não có tình cảm riêng, đòi hỏi riêng và nhu cầu riêng, và những điều này không phải lúc nào cũng giống những cái mà các gene đã áp đặt cho nó. Chẳng hạn bạn có thể quyết định rằng bạn không thích lấy cái anh chàng cao lớn, giàu sụ và thành công nhất cái phố này mà chỉ sống một mình cả đời còn hay hơn. Hoặc giả bạn lấy ai đó nhưng không thích có con và cả hai chỉ sống như vậy cho đến lúc chia tay với cuộc đời. Cũng thật là tệ, theo quan điểm của các gene, loài người đã khám phá ra cấu tạo của chính mình và đã phát minh ra nhiều công nghệ tiên tiến. Thậm chí con người đôi khi còn quyết định rằng họ thích gene này hoặc không thích gene kia, và tìm cách loại nó ra khỏi bộ gene.
Trong truyện Kiều, cụ Nguyễn Du từng thắc mắc như là một lời ta thán:Người đâu gặp gỡ làm chi / Trăm năm biết có duyên gì hay không?Căn cứ vào những gì chúng ta biết về gene và tình yêu, tôi xin trả lời cụ là “có”, và “duyên” ở đây là gene, cho dù câu trả lời có vẻ muộn màn cả 200 năm.
Và rồi, trong một ngày đẹp trời vào dịp Xuân về, nếu như trong một bữa tiệc, trong khi bạn đang tán gẫu với một nàng hay một chàng có ngoại hình trung bình và bất chợt người đó nói một điều gì làm lòng bạn rung động, làm cho bạn phải “đày thân giữa xứ phiền” thì bạn sẽ cảm thấy nàng hay chàng này chính là người mà số phận đã dành cho bạn. Nhưng nếu bạn là người đã có gia đình, tôi thành thật khuyên bạn hãy lập tức dùng bộ não của bạn mà nói ngay với các gene của mình rằng “Xéo ngay đi cho khuất mắt ta,” chứ nếu không thì hậu quả sẽ là:Và tình ái là sợi dây vấn vít / Yêu, là chết ở trong lòng một ít.