ĐIỀU TRỊ VÀ DỰ PHÒNGBỆNH SỐT RÉT ÁC TÍNH

Sốt rét ác tính là một biến chứng nặng do P. falciparum .Vì chưa có vaccine phòng sốt rét và biện pháp hóa dự phòng tập thể không áp dụng trong vùng có dịch sốt rét lưu hành, do đó để làm giảm tỉ lệ Sốt rét ác tính và tử vong cần:

Nâng cao mức sống của người dân vùng dịch tể sốt rét để giảm nguy cơ mắc bệnh

Cải thiển chế độ lao động hợp lý.

Ở vùng bệnh lưu hành, giáo dục quần chúng phòng chống bệnh để giảm tỷ lệ mắc.

Tổ chức và kiện toàn mạng lưới y tế cơ sở để phát hiện trường hợp bệnh, điều trị đúng – đủ liều sẽ giảm số sốt rét thường chuyển sang sốt rét nặng.

Có sổ theo dõi và quản lý đối tượng có Ký sinh trùng sốt rét (+) và điều kiện làm việc, sinh hoạt của họ. Kéo máu định kỳ để phát hiện Ký sinh trùng sốt rét.

Tại đơn vị điều trị, Sốt rét ác tính cần chăm sóc, điều trị sớm, đúng để giảm tỷ lệ tửvong.

Nguyên tắc điều trị sốt rét ác tính

Phải làm giảm và diệt Ký sinh trùng sốt rét trong máu càng sớm càng tốt bằng thuốc kháng sốt rét như quinine và artesunat nhất là ở trẻ con và phụ nữ có thai

Chăm sóc và hồi sức như một cấp cứu nội khoa: chống phù não, co giật, suy thận, suy hô hấp, thiếu máu, phù phổi, suy gan, cân bằng điện giải toan kiềm, chống bội nhiễm.

Điều trị cụ thể

Sốt rét ác tính thể não

Chăm sóc theo dõi

Bệnh nhân hôn mê: đặt tư thế nằm nghiêng, hút đàm giãi để đường thở thông thoáng.

Chống loét ở các điểm tiếp xúc bằng xoa bóp, thay đổi tư thế hoặc kê đệm hơi.

Vệ sinh hàng ngày

Điều trị nguyên nhân: Các thuốc chống sốt rét là phương tiện có sẵn ở trạm xá, rẻ tiền, dễ được cộng đồng chấp nhận

Dùng thuốc kháng sốt rét: Thuốc đề nghị được dùng ưu tiên là Quinine và Artesunate ( diệt Ký sinh trùng nhanh và ít đề kháng ) giai đoạn đầu thuốc hoàn toàn đường tĩnh mạch.

Quinine chlohydrate hoặc dichlohydrat: 8 -10 mg /kg /8h pha vào dung dịch glucose 5% hoặc chlorua natri 9%O chuyền TM XXX /1 phút. Lần đầu tiên có thể dùng liều tải 20mg/kg nếu chưa dùng quinin trước đó. Tiếp tục trong 2-3 ngày đầu . Khi ra khỏi hôn mê, chuyển biến tốt, chuyển sang đường uống cho đủ tổng liều(<13,2 g).

Artesunate: Trong sốt rét ác tính luôn luôn phải phối hợp artesunate với một loại thuốc kháng sốt rét khác. Có thể dùng đường tiêm bắp, tiêm tĩnh mạch hoặc uống qua sonde dạ dày hoặc nhét hậu môn . Thường thì dùng artesunate 60 mg TB hoặc TTM, tổng liều <400 mg. Giờ thứ 1: 2ống. Sau đó cứ 24 giờ tiêm 1 ống đến khi bệnh nhân tỉnh thì chuyển sang uống đủ 7 ngày.(phác đồ của Bộ Y tế)

Có thể dùng Artesunate: viên đạn đặt hậu môn: 100mgx3 viên/ngày đến khi bệnh nhân tỉnh thì chuyển sang uống cho đủ 7 ngày

Điều trị hỗ trợ

Chống co giật:

Phenobarbital 0,2g x 1 ống tiêm bắp khi lên cơn Seduxen 10 mg x 1 ống TM

Chống phù não: bằng các dung dịch ưu trương glucose 20% hoặc manitol 20%

Chống suy hô hấp do ứ đọng đờm dãi và phù phổi.

Bù dịch và cân bằng điện giải: chú ý bệnh nhân luôn luôn bị đe dọa bởi hiện tượng phù phổi, phù não và suy thận, nhưng cũng dễ bị tình trạng thiếu nước do sốt cao, nôn, ảnh hưởng đến tuần hoàn. Do đó bệnh nhân phải được theo dõi bằng điện giải đồ và đo áp lực tĩnh mạch trung tâm (CVP).Dịch vào thường là Ringer, glucose 5%, chlorua natri 9%o, có thể dùng glucose 10 % nếu có nguy cơ hạ đường huyết.

Chống bội nhiễm nhất là khi nằm lâu và có can thiệp các thủ thuật như đặt sonde, đặt catheter, CVP … Thường dùng kháng sinh có phổ khuẩn rộng.

Điều trị sốt rét đái huyết sắc tố

Ở bệnh nhân đái Hb cần hỏi tiền sử, bệnh sử, dùng thuốc và xét nghiệm tìm Ký sinh trùng sốt rét.

Nếu bệnh nhân đang điều trị với một thuốc sốt rét não đó và đái ra Hb thì xem xét lại và ngưng thuốc đó, thay bằng thuốc khác; đồng thời làm xét nghiệm tìm men G6PD . Nếu không thấy thiếu men G6PD thì có thể tiếp tục dung quinine, artesunate .

Luôn luôn theo dõi màu sắc và số lượng nước tiểu mỗi 8 giờ và tổng lượng nước tiểu 24 giờ, cố gắng duy trì lượng nước tiểu từ 1,2 -1,5 l / 24 giờ.

Phải luôn luôn nhớ nguy cơ cao của Sốt rét ác tính đái Hb là viêm tắc ống thận dẫn đến suy thận do đó phải theo dõi và giải quyết triệt để khâu này bằng:

Thuốc lợi tiểu: chỉ sử dụng sau khi đã bù dịch đủ mà không có nước tiểu hoặc tiểu ít. Thuốc được sử dụng là Furosemide: liều khởi đầu 40 mg TM. Sau đó nếu vẫn không có nước tiểu thì tùy tình hình mà tăng dần liều 80 mg, 160 mg…

Nếu vẫn vô niệu có thể hoại tử ống thận cấp cần theo dõi ure, creatinine máu, điện giải đồ và chức năng đông máu toàn bộ để chạy thận nhân tạo lúc cần.

Corticoide: có thể kiểm soát được cơn tán huyết, dùng Depersolon 100 mg hoặc hydrocortisol hemisucsinate 200 mg/ ngày, cho đến khi nước tiểu trong.

Việc truyền máu tốt nhất nên kiểm tra hồng cầu và Hct thường xuyên, khi thấy 2 trị số này tụt nhanh chóng (Hct <20%, HC <2 triệu) phải đặt ra ngya nên truyền máu tươi.

Cân bằng nước – điện giải và toan kiềm: dựa bilan nước, kiềm hóa nước tiểu để tránh Hb kết tủa lắng đọng tại ống thận.

Tóm lại Sốt rét ác tính là một biến chứng nặng của sốt rét P. falciparum, chẩn đoán sớm, điều trị đúng, cũng như tuyên truyền vận động phòng chống sốt rét sẽ giảm tỉ lệ tử vong Sốt rét ác tính.

Bài trướcBệnh thoát vị đĩa đệm cột sống
Bài tiếp theoBệnh Gan nhiễm mỡ

BÌNH LUẬN

Nhập nội dung bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.