ĐIỀU TRỊBỆNH SỐT RÉT THƯỜNG
Nguyên tắc
Chẩn đoán sớm, điều trị sớm, đủ liều lượng.
Điều trị nguyên nhân: cắt cơn sớm, tiệt căn tốt, chống tái phát và chống lây lan.
Điều trị toàn diện
Dùng thuốc an toàn, đúng liều tránh đề kháng thuốc
Các thuốc chống sốt rét
Quinin
Thuốc rẻ, ít bị đề kháng, diệt tốt các thể vô tính trong hồng cầu, uống hấp thu hoàn toàn, không bị phá hủy ở ruột, nồng độ cao sau 3 giờ, bán hủy 10 giờ.
Thuốc có thể gây ù tai, chóng mặt, nhức đầu, nôn, đái Hb (ngừng thuốc ngay), hạ đường huyết, tiêm bắp dễ gây áp xe.
Liều: 10 mg/kg mỗi 8 giờ . Hoặc 1,5-2 g/ ngày, tổng liều < 15 g/ đợt tấn công.
Choroquine (nhóm 4 amino quinolein)
Viên chloroquin diphosphate 0,25g (150mg base chloroquin) hoặc dung dịch (0,2g) tiêm bắp, tĩnh mạch. Chloroquin sulphate (Nivaquin) viên 0,1g. Amodiaquine viên 0,2g.
Thuốc diệt thể vô tính trong hồng cầu, nhưng hiện bị P. falciparum đề kháng ở nhiều nơi trên thế giới. Thuốc còn diệt giao tử P. vivax và P. malariae.
Tổng liều mỗi đợt tấn công < 2,5g. Uống 4v-4v-2v. Tĩnh mạch hoặc tiêm bắp thông thường 0,6g – 0,4g – 0,4g
Primaquin (Nhóm 8 aminoquinolein: viên 13,2mg, chứa 7,5mg base):
Thuốc diệt giao bào (chống lây) liều duy nhất 30mg (4 viên/ ngày) chia 1 hoặc 2 lần.
Chống thể ngủ P.vivax (chống tái phát) liều 7,5 mg x 2viên / ngày x 10 ngày
Tác dụng phụ: Đái Hb ở người giảm Không dùng cho phụ nữ có thai và trẻ < 4 tuổi.
Tetracycline: men G6PD, ăn kém, nôn, tím môi.
Diệt thể vô tính trong cầu nhưng cắt sốt và sạch ký sinh trùng chậm, dễ bị đề kháng nên phải phối hợp thuốc. Liều tetracyclin 1g/ngày x 7 ngày, hoặc doxycycline 100 mg/ngày x 7 ngày.
Nhóm Diamino pyrimidin
Đại diện pyrimethamin, thường phối hợp với sulphamide chậm (fansidar = sulphadoxine pyrimethamin). Tác dụng yếu và chậm, tác dụng chủ yếu trên thể vô tính ngoại hồng cầu.
Mefloquin (quinoleine methanol)
Dẫn xuất 4 amino quinolein; viên 250mg. Tác dụng tốt với vô tính trong hồng cầu và thoa trùng P. falciparum.
Liều duy nhất 1250- 1500 mg/ngày chia 3 lần: giờ đầu 750 mg, cách 8 giờ 500 mg, 8 giờ sau 250 mg (3-2-1). Khi phối hợp artesunate thì liệu trình như sau: 3 ngày đầu liều artesunate là 4v – 2v – 2v; ngày thứ 3 dùng mefloquin 3 viên (750mg) liều duy nhất.
Tác dụng phụ (liên quan liều lượng) gồm: buồn nôn, chóng mặt, có khi rối loạn tâm thần và co giật. Có thể gây chậm nhịp xoang nên chống chỉ định dùng chung với các thuốc ức chế (hoặc ức chế calci). Không dùng cùng quinin hoặc quinidin vì gây tăng độc tính.
Halofantrin
Thuốc tan nhanh trong mỡ, viên 250mg, 500 mg. Uống khi đói, tác dụng gần giống mefloquin. Liều 500mg x 3 lần cách nhau 6 giờ, liều duy nhất, đạt nồng độ đỉnh 6 – 7 giờ.
Sesquiterpen lacton ̣̣(quinghaosu và dẫn chất)
Quinghaosu được lấy từ cây Artemisina annual (Trung quốc, rừng Tây bắc nước ta). Tác dụng diệt nhanh ký sinh trùng vô tính trong hồng cầu, thuốc tốt nhờ làm sạch nhanh ký sinh trùng máu, ít tác dụng phụ và rẻ. Ngoài ra còn tác dụng ức chế giao bào, chống hồng cầu nhiễm ký sinh trùng kết dính liên bào nội mạch và tạo hoa hồng Hiện nay, song song với quinin thuốc dùng rất hiệu quả để điều trị sốt rét. Tuy nhiên, thời gian bán huỷ nhanh, nên dễ tái lại, vì vậy cần phối hợp thuốc.
Artesunate (theo phát đồ mới của Bộ Y tế năm 08/2003)
Viên 50 mg x 4 viên / ngày đầu; các ngày sau uống 2 viên/này (6ngày) (liều 800mg)
Ống 60 mg, dung môi Bicarbonate natri 5%. Tiêm tĩnh mạch: 1 ml dung môi hoà thuốc lắc kỹ để thuốc tan hoàn toàn sau đó thêm 5ml muối đẳng trương. Nếu tiêm bắp không cần thêm dung dịch muối đẳng trương, liều đầu 2,4mg/kg (2 ống); 24 giờ sau tiêm nhắc lại 1,2mg/kg (1 ống); sau đó mỗi ngày tiêm 1 ống cho đến khi bệnh nhân tỉnh rồi chuyển sang uống đủ liều thuốc.
Viên sốt rét CV-8
Thuốc dùng điều trị sốt rét không biến chứng tỷ lệ khỏi bệnh cao, ít tái phát. Viên CV-8 có 4 thành phần: 32mg dihydroartemisimin (DHA) 320mg piperaquin phosphat 90mg trimethoprim 5mg primaquin phosphat. Liều người lớn: 4 viên/ngày đầu chia 2 lần: 2viên giờ thứ nhất và 2viên giờ thứ 8; 2 ngày sau mỗi ngày uống 2 viên (tổng 8 viên).
Điều trị cụ thể
Các thuốc điều trị sốt rét sẵn có tại y tế cơ sở, phát miễn phí, dễ thực hiện ở cộng đồng.
Điều trị cắt cơn
Dùng thuốc diệt ký sinh trùng vô tính trong hồng cầu. Nên phối hợp 2 thuốc để tránh P. falciparum kháng thuốc.
Với P. falciparum cắt cơn sốt là tiệt căn: ưu tiên là quinine, artesunate hoặc CV-8
Với P. vivax dùng chloroquine hiệu quả tốt (tuy nhiên, khi không nắm chắc ký sinh trùng, nên điều trị như P. falciparum)
Điều trị tiệt căn
Đặt ra đối với P. vivax, P. ovale: chống tái phát xa bằng primaquin 7,5mg x 2v/ngày x 10 ngày để diệt thể ngủ.
Chống lây lan
Primaquin 7,5mg x 4v/ngày, liều duy nhất khi có giao bào trong máu.
Nâng cao thể trạng
Chế độ ăn giàu dinh dưỡng: đạm, đường, mỡ và vitamin.
Truyền máu tươi chỉ khi hồng cầu và thể tích huyết cầu giảm quá nặng.
Điều trị triệu chứng
Hạ nhiệt và an thần đặt ra khi sốt cao và có nguy cơ co giật nhất là trẻ em.
Điều trị các triệu chứng khác.
PHÒNG CHỐNG SỐT RÉT
Tác hại của sốt rét đối với kinh tế – xã hội rất lớn. Nếu đầu tư một cách thỏa đáng thì việc phòng chống sẽ có hiệu quả. Để phòng chống sốt rét tốt cần tiến hành các biện pháp sau:
Tuyên truyền giáo dục
Để cộng đồng tham gia phòng chống sốt rét tại vùng bệnh lưu hành, tuyên truyền giáo dục là biện pháp cần thực hiện thường xuyên, liên tục do đó cần có sự phối hợp liên ngành, dùng mọi phương tiện truyền thông đại chúng.
Nâng cao sức khoẻ cộng đồng
Cần cải thiện chế độ dinh dưỡng, chế độ lao động của dân sống ở vùng sốt rét lưu hành, nhất là phụ nữ có thai, người già và trẻ em. Vì vậy, cần chăm sóc sức khoẻ của nhân dân, nâng cao đời sống vật chất – tinh thần, phát triển sản xuất
Vắc xin phòng sốt rét: hiện tại vẫn chưa có vắ xin để sử dụng.
Hóa dự phòng
Uống thuốc phòng (hóa dự phòng tập thể): biện pháp không được tán thành, vì dùng thuốc kéo dài sẽ gây áp lực thuốc, làm ký sinh trùng dễ đề kháng thuốc, chi phí cao, không có điều kiện dùng thuốc liên tục… Cho nên, uống phòng chỉ áp dụng cho người có nguy cơ mắc bệnh như người chưa có miễn dịch sốt rét hoặc vào vùng sốt rét trong một thời gian ngắn: người đi công tác, du lịch thì dùng: mefloquin 250 mg x 1v / tuần. Dùng 2 tuần trước lúc vào, lúc ở và 6 tuần sau khi ra khỏi vùng dịch.
Các biện pháp phòng chống vectơ
Nói chung, các biện pháp phòng chống vectơ cần áp dụng ở nơi có vectơ, các biện pháp thích hợp được dùng gồm:
Cải tạo môi trường
Làm vệ sinh ngoại cảnh, khơi thông cống rãnh, lấp các ao tù nước đọng, phát quang, vệ sinh chuồng gia súc… để loại trừ nơi muỗi sống. Việc phát triển kinh tế – xã hội đi kèm phát triển các hệ thống thủy lợi, xây hồ chứa nước, thủy điện … đã tạo điều kiện cho muỗi truyền bệnh phát triển, vì vậy, cần theo dõi và gíam sát chặt chẽ mật độ muỗi, bọ gậy, nhất là khi có sự hiện diện của muỗi truyền bệnh trong vùng đó, để có biện pháp khống chế thích hợp.
Bảo vệ cá nhân
Biện pháp được dùng rộng rải và dễ thuyết phục nhất: nằm màn , rèm, võng tẩm permethrine. Nếu được áp dụng đúng kỹ thuật và giáo dục nhân dân vùng sốt rét có thói quen nằm màn tẩm sẽ giảm được tỷ lệ mắc bệnh.
Biện pháp sinh học
Để diệt bọ gậy, làm giảm mật độ vectơ ở những vùng sốt rét không ổn định. Biện pháp đang được thực hiện là dùng Bacillus thuringiensis H14 và cá (trắm cỏ, rô phi, bảy màu, săn sắt… ) thả vào ao hồ, các nơi có nước.
Phun thuốc tồn lưu
Hiện nay vectơ đề kháng nhanh các thuốc phun. Biện pháp này trong thực tế để giảm sự lan truyền bệnh mà không làm giảm tỷ lệ mắc bệnh. Thuốc phun phải an toàn, không mùi và vết phun được nhân dân chấp nhận, gía cả hợp lý với điều kiện kinh tế của dân ở vùng sốt rét. Cấu trúc nhà cửa cũng ảnh hưởng đến hiệu quả của biện pháp này, ví dụ: nhà phải kín, có diện phun, tường nhà phải phù hợp với tồn lưu của hóa chất. Do đó cần chuẩn bị hóa chất và dạng phun theo khuyến cáo của WHO. Trong y tế cộng đồng, phun tồn lưu cần chọn thuốc tan trong nước, thuốc hiện đang dùng ICON. Tuy nhiên, hiện đang cố gắng giảm dần phun hóa chất tồn lưu; chỉ thực hiện ở các ổ bệnh vùng trọng điểm, vùng sốt rét lưu hành nặng và nơi không áp dụng được tẩm màn bằng permethrine.
Tóm lại: Sốt rét là một vấn đề lớn của các nước ở trong vùng nhiệt đới. Việc chẩn đoán bệnh sớm và đúng, điều trị sớm, đủ liều và có biện pháp phòng chống tốt và toàn diện sẽ khống chế được bệnh sốt rét đến mức thấp nhất.