PHONG HẤN THỬ THẤP GÂY BỆNH
A- NGUYÊN VĂN :
Nhân vu hàn, dục như vận khứ (1), khởi cư như kinh (2), thần khí nải phù. Nhân vu thử, hãn, phiền tắc suyễn hát, tịnh tắc đa ngôn, thế nhược phiền thán(3), hãn xuất nhi tánh Nhãn vu Kế thấp, thủ như quá (4), thấp nhiệt hất nhương (5), đại cân nhuyễn đoản, i tiểu cân thỉ trường(6), nhuyễn đoản vi câu (7), thỉ trưởng vi nuy. Nhân vu khí(8),vi thũng. Tứ duy tương dại, dương khí nãi kiệt (9).
(Tố vấn : Sinh khí thông thiên:luận)
C-DỊCH NGHĨA NGUYÊN VĂN :
khi trời lạnh, dương khí trong bớt thể căn phải giữ kín đáo, VI như thi quay của cẩn cửa; luôn xoay chuyển bên trong ổ quay. Nếu cuộc sống thay đổi quá đột ngột làm cho dương khí bị nhiễu loạn thì thần khí dẻ bị,phù; Bệnh do cảm phải thử tà, mồ hôi ra nhiều, người phiền táọ bứt rứt, háy hạ mồm suyễn thở, lúc yên tĩnh thì hay làm lại mình hóng thử lửa thì an, một khi ra mồ hôi thì bệnh sẽ lui. Bệnh do cảm phải thấp tà thì đầu nặng như bị bó chặt, nếu kiêm chứng thấp nhiệt không khỏi thì sẽ khiến các đường gân lớn bị mềm nhũn co rút, các đường gân nhỏ thì bị giãn dài bại xụi, biến thành chứng nuy. Bệnh do cảm phải phong tà hay bị sưng phù. Bốn loại tà khí kể trên nếu cứ quyện chặt, kéo dài dây dưa thì sẽ khiến cho dương khí của người bệnh suy kiệt.
D-CHÚ THÍCH :
(1) Dục như vận khu: Phải giống như trụ quay của cảnh cửa. Vận khu, chỉ trụ quay. Ý nói dương khí phải vận chuyển và được giữ kín đáo bên trong cơ thể, giống như trụ quay của cánh cửa luôn xoay chuyển bên trong ổ quay vậy.
(2) Khởi cư như kinh: Chỉ cuộc sống làm lụng nghỉ ngơi thay đổi quá đột ngột. Vương Băng chú :“Nếu cuộc sống thay đổi quá đột ngột, hay bay nhảy phóng đãng thì thần khí sẽ phù vượt không nơi yên nghỉ”.
(3) Thể nhược phiền thán: Mô tả người bệnh sốt cao, mình nóng như lửa than.
(4) Thủ như quả: Thủ là đầu, quả là bó lại. Ý nói đầu nặng như bị bó lại, đây là dấu hiệu dương khí bên trên bị thấp tà vây khổn.
(5) Nhương: Bài trừ.
(6) Đại cân nhuyễn đoản, tiểu cân thỉ trường: Các đường gân lớn mềm nhũn, co rút, các đường gân nhỏ dãn dài buông lơi.
(7) Câu Đây chỉ chứng trạng co quắp không duỗi ra được.
(8) Khí: Khí đây là chỉ phong tà. Cao Sĩ Tôn chú :“Khí có nghĩa như phong. Âm dương ứng tượng đại luận ghi: Khí của dương dùng gió lớn của trời đất để đặt tên, nên không nói phong mà nói khí”.
(9) Tứ duy tương đại, dương khí nãi kiệt: Tư duy tương đại là chỉ bốn loại tà khí phong, hàn, thử, thấp quyện chặt với nhau, kéo dài dây dưa để hại người. Dương khí nãi kiệt là nói dương khí của bệnh nhân bị suy kiệt.