LIỆT MẶT

Diện Thần Kinh Ma Tý – Paralysico FaciaLupus ban đỏo – Facial Nerve Paralysis.

Đại Cương

Theo “Triệu Chứng Học Nội khoa”: Liệt mặt là hiện tượng mất hoặc giảm vận độc nửa mặt của những cơ bản da ở mặt do dây TK VII chi phối.

Là một loại bịnh thường gặp nhất của dây TK sọ não số VII.

Tuổi nào cũng có thể phát bịnh nhưng thường gặp ở thanh và tráng niên.

ĐÔNG Y gọi là khẩu nhãn Oa Tả, Khẩu tịch, Diên nan (Than), Phong điếu tuyến.

Đa số các trường hợp liệt mặt (liệt dây TK VII) do lạnh, do xung huyết, điều trị bằng châm cứu đem lại kết quả tốt. Các trường hợp liệt do nhiễm khuẩn hồi phục chậm hơn.

Phân Loại Liệt Mặt

Theo Nội Khoa

Dựa vào cấu tạo giải phẫu học của dây VII, chia làm 2 loại:

Liệt mặt thể trung ương: do tổn thương phía trên nhân của dây VII, thường kèm liệt nửa người. Không có dấu hiệu CharLupus ban đỏs Bell, không bao giờ tiến triển sang thể co cứng.

Liệt mặt thể Ngoại biên: do tổn thương hoặc ở ngay nhân nằm trong cầu não hoặc ở đoạn tận cùng phía ngoài. Thường liệt cả mặt trên lẫn mặt dưới, có dấu hiệu CharLupus ban đỏs Bell, có thể tiến triển thành thể cứng.

Theo Đông Y:

ĐÔNG Y dựa theo nguyên nhân gây bịnh, chia làm 3 loại:

Liệt mặt do phong hàn (liệt dây TK VII ngoại biên do lạnh).

Liệt mặt do phong nhiệt (liệt dây TK VII ngoại biên do nhiễm khuẩn).

Liệt mặt do huyết ứ ở kinh lạc (liệt dây TK VII ngoại biên do sang chẩn).

Nguyên Nhân Liệt Mặt

Theo Y học hiện đại :

Liệt dây TK VII thể trung ương.

Thường do tất cả mọi tổn thương ở 1 bên bán cầu não: nhũn não, chảy máu não, khối u não…

(Cần nhớ là trong hội chứng Millard-GuoLupus ban đỏr tuy liệt mặt thể ngoại biên nhưng vẫn kèo theo liệt nửa người với dấu hiệu Babinski bên đối diện của mặt liệt).

Liệt dây TK VII thể ngoại biên

Dựa theo vị trí từ nhân ra đến chỗ tận cùng của dây TK VII, có thể do:

Viêm màng não dầy dính, làm tổn thương TK từ rãnh hành tủy- cầu não đến ống tai trong.

Các nguyên nhân ở tai: Viêm tai giữa cấp hoặc mạn.

Chấn thương vùng xương đá: ở ngoài lớn do vỡ xương đá, ở trẻ sơ sinh do can thiệp sản khoa (do kẹp Foxcep, khung chậu người mẹ hẹp…).

Do giang mai, viêm nhiễm dây TK, bịnh bại liệt trẻ em (Polye), Zona vùng nhân gối, uốn ván mặt của Rase… các thể này hiện nay rất ít gặp.

Do nguyên nhân không rõ thường được quy là do lạnh (loại này lại gặp rất nhiều trên lâm sàng).

Tóm lại, 2 nguyên nhân chính gây liệt mặt là:

Nếu có liệt nửa người là do các tổn thương ở não.

Nếu không liệt nửa người và là thể liệt ngoại biên: thường là do lạnh.

Nguyên nhân theo Đông Y:

Do tà khí vào lạc mạch của 3 kinh Dương (Thủ dương minh Đại trường, Túc dương, minh Vị, và Túc thái dương Bàng quang) làm cho sự lưu thông của kinh khí mất bình thường gây ra bịnh.

Do sang chấn (chấn thương) làm huyết bị ứ trở kinh lạc, khí huyết không điều hòa, kinh cân thiếu dinh dưỡng không co lại được gây ra bịnh.

Triệu Chứng Liệt Mặt

Theo Y học hiện đại (Sách Triệu Chứng Học Nội khoa):

Trường hợp liệt hoàn toàn:

Bảo người bệnh dương 2 lông mày lên, bên liệt lông mày không dương lên được.

Bảo người bịnh nhăn trán lên, trong trường hợp liệt dây VII ngoại biên ta thấy mắt bên liệt không nhắm kín trong khi đó nhãn cầu vẫn đi lên phía trên và ra ngoài: mắt bên liệt chỉ nhìn thấy lòng trắng và một phần lòng đen ở phía trên ngoài. Đó là dấu hiệu của CharLupus ban đỏs Bell.

Bảo người bịnh há miệng, thè lưỡi, ta thấy hình như lưỡi lệch hướng về bên liệt (Thực ra lưỡi không lệch đi mà chính là do miệng bị méo kéo về bên lành.)

Yêu cầu người bịnh huýt sáo, nếu liệt mặt nhẹ sẽ thấy miệng méo, nếu liệt cơ vòng môi, không huýt sáo được.

Trường hợp liệt nhẹ.

Thường khó thấy sự không cân đối mặt, cần phải thăm khám tỉ mỉ, kiên trì mới phát hiện được.

Yêu cầu người bịnh nhắm thật chặt 2 mắt, ta thấy 2 lông mi bên liệt có vẻ dài hơn, do mắt bên liệt không co được chặt.

Theo Đông Y:

Liệt Dây VII Ngoại Biên Do Lạnh: sau khi gặp mưa gió lạnh, tự nhiên mắt không nhắm được, miệng méo cùng bên với mắt, uống nước bị trào ra, không huýt sáo được, toàn thân có hiện tượng sợ lạnh, rêu lưỡi trắng mạch Phù.

Lý do trúng phong hàn ở kinh lạc.

Điều trị: Khu phong, tán hàn, hoạt lạc.

Sách NKHT Đô dùng bài Đại Tần Giao Thang: Khương hoạt, Độc hoạt, Tần giao, Bạch chỉ, Xuyên khung, Đương quy, Bạch thược, Xuyên khung, Phục linh, Hoàng cầm đều 8g, Ngưu tất, Thục địa, Đảng sâm, Bạch truật đều 12g- Sắc uống.

Sách Đông Y Dân Tộc Việt Nam dùng: Tang ký sinh, Thương nhĩ tử, Kê huyết đằng đều 12g, Quế chi, Bạch chỉ, Uất kim, Trần bì đều 8g- sắc uống.

Sách TGD Phương dùng bài Ngọc Kinh Tán (Đương quy 8g, Nhục quế 10g, Nguyên hồ 8g, Toàn trùng 4g- sắc uống.

Và bài Thục Phụ Ô Tán: Thục phụ tử 90g, Xuyên ô (chế) 90g, Nhũ hương 60g. Tán bột chia thành 8-10 gói. Mỗi ngày làm 1 lần, mỗi lần 1 gói. Trước khi dùng thêm 4g bột gừng trộn vào thuốc, cho nước vào khuấy đều thành hồ sệt. Trước khi đắp thuốc, dặn người bịnh dùng lát gừng mỏng xát vào vùng bịnh cho đỏ ửng da, rồi bôi thuốc lên, trên đến huyệt Thái dương, dưới đến huyệt Địa thương, rộng chừng 3cm, lấy vải gạc cố định, rồi dùng túi nước nóng chườm ở ngoài một lát. Mỗi ngày thay thuốc một lần cho đến khi khỏi.

Liệt Dây VI Do Phong Nhiệt: Tự nhiên mắt không nhắm được, miệng méo cùng bên với mắt, ăn uống nhai khó, uống nước thường bị trào ra, không huýt sáo được, toàn thân có sốt, sợ gió, rêu lưỡi trắng dầy, mạch Phù, Sác.

Lý: do phong nhiệt (nhiễm khuẩn) xâm nhập vào kinh lạc.

Điều trị: Khư phong, thanh nhiệt, hoạt huyết (lúc có sốt). Khư phong bổ huyết, hoạt lạc (khi hết sốt).

NKHT Hải: dùng bài Khiên Chính Tán Gia Vị: Bạch phụ tử, Cương tằm, Toàn yết, lượng bằng nhau, thêm Kinh giới, Phòng phong, Bạch chỉ, Hồng hoa, tán bột, mỗi lần dùng 4g uống với rượu nóng, ngày 2 lần.

(Bạch phụ tử để tán phong tà ở vùng đầu mặt; Cương tằm khử phong đờm; Toàn yết tức phong, trấn kinh. 2 vị này hợp lại có tác dụng sưu phong, thông lạc, dùng rượu để dẫn thuốc đi lên thẳng đầu mặt. Thêm Kinh giới, Phòng phong, Bạch chỉ để tán phong, khử tà, Hồng hoa để hoạt huyết, hóa ứ).

Sách Đông Y Dân Tộc VN dùng: Kim ngân hoa, Bồ công anh đều 16g, Thổ phục linh, Thương nhĩ tử, Xuyên khung, Đan sâm, Ngưu tất đều 12g – sắc uống.

Sách LSDKTHTL Học dùng bài: Trị Chư Phong Tý Tà Phương: Phòng phong, Cam thảo, Hoàng cầm, Quế chi, Đương quy, Phục linh, Tần cửu, Cát căn, Sinh khương, Đại táo, Hạnh nhân), sắc uống.

Liệt Dây VII Do Huyết Ứ:

Chúng: Sau khi té ngã, đánh đập, thương tích, sau khi mổ vùng hàm, mặt, xương chũm…tự nhiên mắt không nhắm được, miệng méo cùng bên với mắt, ăn uống khó, không huýt sáo được.

Điều trị: Hoạt huyết, hành khí.

Sách: TGD Phương dùng bài Hóa Ứ Chỉ Thống Thang gia giảm: Sinh địa, Đương quy đều 16g, Xích thược, Đào nhân, Hồng hoa, Đan sâm đều 12g, Xuyên khung 8g, Điền thất (bột) 4-6g uống với nước thuốc.

Sách Đông YDT Việt Nam dùng: Đan sâm, Xuyên khung, Ngưu tất đều 12g, Tô mộc, Uất kim đều 8g, Xích thược 16g, Hồng hoa 8-20g, Quế chi 6-10g, Quất lạc 8-10g, Địa long 10-16g, Cam thảo 4-6g- sắc uống.

Thuốc Đắp Trị Liệt Mặt

Tỳ ma tử 40g bỏ vỏ, Băng phiến 1 ít, giã nát như cao. Liệt bên trái dán bên phải và ngược lại (Đinh Nghiêu Thần, Hà Bắc-TQ).

Tỳ ma nhân (tử) 20 hột, Niêm (Nam) hương 8g. Giã nát Tỳ ma nhân, cho Niêm hương vào quậy đều. Đổ rượu vào hâm nóng, lúc còn ấm đem dán vào má. Bên trái liệt thì dán bên phải và ngược lại (Trang Thế Đức, Phước Kiến – TQ).

Thương nhục chế (giã nát), rắc trên thuốc cao thường dán ở khóe miệng. Bên trái liệt dán bên phải và ngược lại (Nhiếp Hàm Trí, Hà Bắc- TQ).

Bạch phụ tử 12g, Cương tằm 12g, Toàn yết 12g, nghiền nát, cho dầu thơm (Hương du) vào quậy đều dùng để dán. Liệt bên trái dán bên phải và ngược lại (Đương Truyền Tuy, Sơn Đông, TQ).

Nam tinh 12g, Chi tử (sống) 20 trái, giã nát trộn với dấm, dùng để bôi, liệt bên trái bôi vào vùng h. Giáp xa bên phải và ngược lại (Quách Đức Hưng, Sơn đông).

Tỳ ma tử 7 hột, Ba đậu 7 cái, giã nát, dán vào huyệt Thái dương, Đau bên phải dán bên trái và ngược lại (Cung Tôn Tính, Sơn Đông, TQ).

Tỳ ma tử 8g (bỏ vỏ), Nhũ hương 4g, giã nát. Liệt bên phải dán bên trái và ngược lại (Trưng Kinh Võ, Hà Bắc, TQ).

Băng phiến 1 ít, hòa với máu đuôi lươn, bôi. Liệt bên phải dán bên trái và ngược lại (293 Bài Thuốc Gia Truyền).

Ghi Chú: Các bài thuốc dùng để đắp, bôi, cần theo dõi cẩn thận, khi thấy hết méo, bỏ thuốc ra ngay.

CHÂM CỨU TRỊ LIỆT MẶT

Sơ thông kinh khí ở vùng mặt, má. Châm Phong trì, Dương bạch thấu Ngư yêu, Tứ bạch (châm thẳng hoặc xiên từ trên xuống), Địa thương thấu Giáp xa, Hợp cốc.

Nếu rãnh nhân trung lệch, chảy nước miếng, thêm Nhân trung, Hoà liêu, Thái dương thấu Giáp xa. Thêm Hiệp thừa tương, Hạ quan, Túc tam lý.

Chọn huyệt phối hợp trên dưới để hiệu quả tốt hơn. Châm nông, kích thích vừa. Mỗi ngày hoặc 2 ngày châm 1 lần, trừ Hợp Cốc, Nội đình, Túc tam lý để sơ thông kinh khí ở Dương minh, theo cách chọn huyệt ở xa;

Thính hội, Giáp xa, Địa thương, Bịnh bên phải cứu bên trái và ngược lại, mỗi huyệt cứu 27 tráng. Hoặc Giáp xa, Thủy câu, Liệt khuyết, Tái uyên, Hiệp cốc, Nhị gian, Địa thương, Ty trúc không (Tư Sinh Kinh).

Ôn lưu, Thiên lịch, Nhị gian, Nội đình Giáp xa, Thủy câu, Liệt khuyết, Tái uyên, Hiệp cốc, Nhị gian, Địa thương, Ty trúc không (Phổ Tế Phương).

Địa thương, Giáp xa, Nhân trung, Hợp cốc. Nếu đã khỏi sau nửa hoặc 1 tháng mà tái phát, châm Thính hội, Thừa tương, Ế phong (Châm Cứu Đại Thành).

Giáp xa, Địa thương (Bách Chứng Phú).

Giáp xa, Địa thương, Thủy câu, Thừa tương, Thính hội, Hợp cốc (:oại Kinh Đồ Dực).

Dương bạch, Ty trúc không, Tứ bạch, Địa thương, Hợp cốc. Phối hợp với Nghinh hương, Nhân trung, Thừa tương, Ế phong, Hội tông. Tất cả đều châm xiên, trừ Hợp cốc, Thừa tương, Ế phong và Hội tông (Trung Quốc Châm Cứu Học Khái Yếu).

Ế phong, Thiên dung, Thính hội Cự liêu, Tứ bạch, Toàn trúc, Ty trúc không, Khúc mấn, Giáp xa, Đồng tử liêu, Địa thương, Hòa liêu (Tân Châm Cứu Học).

Ế phong, Giáp xa, Hạ quan, Tứ bạch, Nghinh hương, Hợp cốc (Châm Cứu Học Giản Biên).

Thừa tương, Liệt khuyết, Nhị gian, Hợp cốc, Thiên lịch, Hòa liêu, Nghinh hương, Ế phong, Ty trúc không, Quyềàn liêu, Tứ bạch, Cự liêu, Địa thương, Đại nghinh, Giáp xa, Hạ quan (Châm Cứu HongKong).

Thủy câu, Địa thương, Giáp xa, Hợp cốc (Trung Hoa Châm Cứu Học).

Địa thương, Giáp xa, Hợp cốc, Nội đình, Thái xung (Tứ Bản Giáo Tài Châm Cứu Học).

Giáp xa, Đại thương, Quyên liêu, Đồng tử liêu, Dương bạch, Hợp cốc (2 bên), Nội đình. Đều tả (Châm Cứu Trị Liệu Học).

Dương bạch, Đầu duy, Ế phong, Giáp xa, Địa thương, Hạ quan, Quyền liêu, Đại nghinh, Thừa tương, Phong trì, Đại chùy, Hoàn cốt, Kiên trung, Kiên ngoại, Thủ tam lý, Hợäp cốc. Hoặc: Địa thương, Giáp xa, Gian sử, Đồng tử liêu, Ty trúc không, Thủy câu, Ế phong, Tứ bạch, Nhĩ môn, Liệt khuyết, Thái uyên (Lâm Sàng Đa Khoa Tổng Hợp Trị Liệu Học).

Hạ quan, Giáp xa, Tứ bạch, Dương bạch, Địa thương, A thị huyệt, Hợp cốc.

Hoặc Khiên chính, Địa thương, Nghinh hương, Toàn trúc, Thừa khấp, Phong trì, Hợp cốc. 1-15 ngày đầu dùng tả pháp, lưu kim 15-20 phút. 15 ngày sau, dùng phép Bình bổ bình tả, lưu kim 20-30 phút (Tứ Xuyên Trung Y số 1985, 43).

Ấn đường, Thừa tương, Phong trì, Đại nghinh, hợp với Tứ bạch, Hạ quan, Túc tam lý. Hoặc Thượng tinh, Quyền liêu, Giáp xa, Hợp cốc, hợp với Lâm khấp, Nghinh hương, Địa thương, Châm trước bổ sau tả (bổ nhiều hơn tả) (Tứ Xuyên Trung Y 1985, 25).

Hợp cốc (2 bên), Hạ quan (bên liệt), Địa thương (bên liệt), Ty trúc không (bên liệt) (Thượng Hải Châm Cứu Tạp Chí 1985, 12).

Hạ quan, Giáp xa, Địa thương, Thái dương, Quyền liêu, Tứ bạch, Toàn trúc, Phong trì, Hợp cốc. Hoặc Nghinh hương, Dương bạch, Nhân trung, Thừa tương, Khiên chính, Đại nghinh, Tam âm giao. Mỗi lần chọn 5-7 huyệt, dùng phép Bình bổ Bình tả (Trung Quốc Châm Cứu 1987, 1).

Dùng kim dài để thâu châm. Đoài đoan xuyên Cự liêu, Địa thương thấu Giáp xa, Thừa tương thấu Đại nghinh, Ế phong, Hơp cốc. Hoặc Dương bạch tháu Ngư yêu, Toàn trúc thấu Ty trúc không, Tứ bạch thấu Đại nghinh, Ế phong, Hợp cốc. Chọn bên bịnh 4 huyệt, bên lành 2 huyệt. Ngày châm 1 lần dùng phép tả (Trung Quốc Châm Cứu số 1987, 13).

Địa thương, Thủy câu, Nghinh hương, Quyền liêu, Tứ bạch, Thái dương, Ty trúc không, Ngư yêu (Giang Tô Trung Y Tạp Chí 1986, 1).

Dương bạch xuyên Ngư yêu, Địa thương xuyên Giáp xa, Dương lăng tuyền, Nội đình. Hoặc Ty trúc không xuyên Thái dương, Hạ quan xuyên Hòa liêu, Hợp cốc, Thái xung (Hồ Nam Trung Y Học Viện Học Báo 1986, 53).

Huyệt chính: Quyền liêu, Hòa liêu, Địa thương, Đồng tử liêu, Hợp cốc.

Ngoại cảm phong hàn thêm Ngoại quan, Phong trì. Can thận âm hư: thêm Thái khê, Hành gian. Can đởm thấp nhiệt: Thêm Trung chử, Ế phong. Có thể thêm Dương bạch (nếu lông mày không nhích được), thêm Địa thương xuyên Quyền liêu (nếu miệng dưới lệch), Đoài đoan xuyên Địa thương (nếu rãnh nhân trung lệch) (Trung Quốc Châm Cứu 1986, 40).

Giáp xa, Địa thương, Hợp cốc, Dương bạch, Thái dương. Phối hợp Phong trì. Ế phong, Quyền liêu, Toàn trúc, Tình minh, Nhân trung, Nghinh hương. Mỗi lần chọn 5-6 huyệt. Ngày châm 1 lần, 10 lần là 1 liệu trình. Nghỉ 3-5 ngày lại tiếp tục. Lưu châm 20 phút (Hồ Bắc Trung Y Tạp chí 1986, 53).

Tứ bạch, Dương bạch xuyên Ngư yêu, Địa thương xuyên Giáp xa. Châm bình bổ bình tả (Liêu Ninh Trung Y Tạp Chí 1985, 39).

Lấy Phong trì làm chính, hợp với Giáp xa, Địa thương, Nhân trung, Thừa tương, Toàn trúc, Tứ bạch, Hợp cốc, Châm bình bổ tả (Trung Quốc Châm Cứu 1986, 3).

Phong trì, Ế phong, Dương bạch, Thái dương, Toàn trúc, Tứ bạch, Nghinh hương, Giáp xa, Địa thương, Hợp cốc. Bên lành châm tả, bên bịnh châm bổ (Thực Dụng Châm cứu Đại Toàn).

Y ÁN TRỊ LIỆT MẶT

(Của Bàng Tuy Nhơn (Hà Bắc-TQ)

Có 1 cô gái 20 tuổi, bị chứng mắt lệch, miệng méo đã 7 năm, được chữa trị bằng nhiều cách mà không bớt. Đã được châm h. Giáp xa, Địa thương và Hơjp cốc mà vẫn không khỏi. Sau đổi dùng phương pháp: Dùng bì châm châm h. Giáp xa rồi lấy vải băng quấn kim lại (băng dính kim theo cách lưu châm). Lưu kim 2 ngày rồi mới châm lại. Châm theo cách này chỉ 2 lần là cô ta bớt.

Y ÁN TRỊ LIỆT MẶT

(của Lý Hạc Minh ở Hà Bắc –TQ)

“Vương, 50 tuổi, bị trúng phong mắt, miệng méo lệch về phía trái. Đã chạy chữa nhiều cách mà không bớt. Sau này phải dùng cách châm như sau: Dùng kim bạc dài, châm vào h. Nghinh hương, vừa châm vừa vê, châm sâu 0,1-0,3 thốn. Rồi dùng 1 mảnh giấy dầy, cắt một lỗ tròn để lòi chuôi và thân kim ra (mục đích để bảo vệ mặt của người bịnh), rồi lấy rượu cồn (AlcooL) đốt chuôi kim, đốt thấy kim đỏ thì ngừng. Bỏ lửa đi, chờ 1 lát khi kim nguội thì rút kim ra. Chỗ kim châm tự nhiên có thứ nước trắng chảy ra. Trong khi đốt kim, người bệnh có cảm giác mặt hơi nhẹ. Sau khi rút kim miệng mắt đều trở lại ngay thẳng. Mười ngày sau, theo phương pháp trên, trị 1 lần nữa, bịnh tình hoàn toàn thuyên giảm”.

Y ÁN LIỆT MẶT DO KINH MẠCH BỊ Ứ TRỆ

(Trích trong Thiên Gia Diệu Phương)

“Trương X nam, 25 tuổi, Xã viên. Nửa tháng trước thấy mắt to, sau đó thấy mặt lệch sang trái, nói phều phào, khi ăn uống thì chảy ra ngoài qua mép, tinh thần căng thẳng. Tự tìm thuốc vườn, bôi máu lươn không bớt. Chữa Đông Tây Y cũng không bớt, đến xin chẩn trị.

Chẩn đoán: Khí của cơ thể hư nhược, lại thêm phong đờm, kinh mạch bị ứ trệ làm ảnh hưởng đến vùng đầu mặt.

Điều trị: bổ khí, hoạt huyết, khư phong, hóa đờm, khử ứ, thông lạc.

Cho dùng bài Khiên Chính Tán (Toàn yết 10g, Bạch phụ tử 6g, Cương tằm 6g) sắc uống. Uống 1 tuần thì mặt đỡ méo. Uống thêm 5 thang nữa không thấy tiến triển hơn. Chuyển sang cho uống bài “Bổ Dương Hoàn Ngũ Thang hợp với Khiên Chính Tán (Hoàng kỳ 100g (sống) Quy vĩ 60g, Xích thược 6g, Địa long (khô) 4g, Xuyên khung 4g, Đào nhân 4g, Hồng hoa 4g, Bạch phụ tử 6g, Toàn yết 10g, Cương tằm 6g. Uống 5 thang mặt cơ bản đã hết liệt. Uống tiếp 5 thang nữa, mặt trở lại bình thường, bịnh khỏi.

Bài trướcLiệt Nửa Người – Bán Thân Bất Toại | Đông Y
Bài tiếp theoLiệt Dương | Đông Y

BÌNH LUẬN

Nhập nội dung bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.